Đế quốc Đại Hàn
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc Đại Hàn (Tiếng Hàn: 대한제국; Hanja: 大韓帝國; Hán-Việt: Đại Hàn Đế Quốc) là quốc hiệu chính thức của bán đảo Triều Tiên trong giai đoạn từ năm 1897–1910, được tuyên bố thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 1897 để thay thế cho nhà Triều Tiên bởi Triều Tiên Cao Tông.
Bài hay đoạn này vẫn đang trong quá trình dịch và chưa được dịch hết. Xin hãy cẩn thận khi đọc bài vì bài chưa được dịch xong có thể đi kèm từ ngữ dịch không chính xác hoặc vẫn còn sót một phần ngôn ngữ khác vì chưa được dịch toàn bộ. Xin xem lý do ở trang thảo luận! Nếu bạn có khả năng dịch, mời bạn tham gia dịch hết bài này. |
Đại Hàn Đế Quốc
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1897–1910 | |||||||||||
Hoàng gia huy | |||||||||||
Lãnh thổ Đế quốc Đại Hàn | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||
Thủ đô | Hán Thành | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Triều Tiên Tiếng Nhật | ||||||||||
Tôn giáo chính | Nho giáo Phật giáo Triều Tiên Shaman giáo Cơ đốc giáo Đạo giáo Minh Thạnh giáo | ||||||||||
Tên dân cư | Người Triều Tiên | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Quân chủ tuyệt đối đơn nhất | ||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||
• 1897–1907 | Triều Tiên Cao Tông | ||||||||||
• 1907–1910 | Triều Tiên Thuần Tông | ||||||||||
Nội các Tổng lý Đại thần | |||||||||||
• 1894–1896 | Kim Hong-jip | ||||||||||
• 1897–1898 | Yun Yong-seon | ||||||||||
• 1905 | Han Gyu-seol | ||||||||||
• 1905–1907 | Pak Je-sun | ||||||||||
• 1907–1910 | Yi Wan-yong | ||||||||||
Lập pháp | Jungchuwon | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Chủ nghĩa Tân đế quốc | ||||||||||
• Tuyên thệ đế quốc | 13 tháng 10 năm 1897 | ||||||||||
• Hiến pháp đầu tiên | 17 tháng 8 năm 1899 | ||||||||||
• Hiệp ước Eulsa | 17 tháng 11 năm 1905 | ||||||||||
• Bí mật công việc cố vấn ở kinh thành | 1907 | ||||||||||
• Bãi bỏ quốc hiệu và hiệp ước sáp nhập với Đế quốc Nhật Bản. | 29 tháng 8 năm 1910 | ||||||||||
• Tuyên bố độc lập | 1 tháng 3 năm 1919 | ||||||||||
Địa lý | |||||||||||
Diện tích | |||||||||||
• Tổng cộng | 222,300 km2 86 mi2 | ||||||||||
Dân số | |||||||||||
• 1900[1] | 17.082.000 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Lạng (1897-1902) Won (1902-1910) | ||||||||||
| |||||||||||
Hiện nay là một phần của | Đại Hàn Dân Quốc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên | ||||||||||
a Không chính thức b 총리대신 (總理大臣) sau đổi tên thành 의정대신 (議政大臣) vào năm 1905 và đổi tên thành 총리대신 vào năm 1907. |
Bài viết này có chứa kí tự tiếng Hàn. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì Hangul hoặc Hanja. |
Đế quốc Đại Hàn là kết quả của một chuỗi các sự kiện bao gồm: Điều ước bất bình đẳng Nhật–Triều (1876), Cải cách Gwangmu (Quang Vũ, 1894-1896) của vua Cao Tông, Phong trào nông dân Đông Học (1894-1895) và chiến thắng quân sự của Đế quốc Nhật Bản trước nhà Thanh.
Sau khi giành được thắng lợi nhanh chóng trong chiến tranh Nhật–Thanh, Đế quốc Nhật Bản đã buộc nhà Thanh phải từ bỏ toàn bộ quyền lực cùng tầm ảnh hưởng tại bán đảo Triều Tiên. Trên danh nghĩa, sự tuyên thệ đế quốc này là nhằm tuyên bố độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Triều Tiên, đoạn tuyệt với mối quan hệ vốn lệ thuộc vào triều đình Mãn Thanh đồng thời tiếp tục thực hiện công cuộc hiện đại hóa đất nước. Nhưng trên thực tế, sự lệ thuộc của nhà Triều Tiên chỉ chuyển từ tay nhà Thanh sang Nhật Bản. Đến năm 1910, sau khi đã củng cố vững chắc quyền lực, lực lượng quân quản của phát xít Nhật đã bãi bỏ quốc hiệu này và kể từ đó toàn bộ bán đảo Triều Tiên trực tiếp nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản.
Vua Cao Tông trước đó đã thực hiện một phần những cải cách nhằm canh tân đất nước; bao gồm đổi mới quân đội, kinh tế, chính sách điền địa, hệ thống giáo dục và tiếp tục mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác trên toàn quốc dựa theo mô hình của cuộc Duy Tân Minh Trị vốn đã áp dụng rất thành công ở Nhật Bản trước đó đồng thời đưa Nhật từ một nước phong kiến lạc hậu trở thành một đế quốc phát triển, nhưng cũng đúng thời điểm này, chính phủ quân phiệt Nhật đã bắt đầu cảnh giác trước những nỗ lực hiện đại hóa cùng tham vọng công nghiệp hóa của triều đình Triều Tiên trong cuộc cải cách Quang Vũ. Cuối cùng, ngay sau sự việc Thống sứ kiêm Toàn quyền Nhật Bản tại Triều Tiên Itō Hirobumi bị nhà cách mạng An Jung-geun ám sát tại Mãn Châu, quân phiệt Nhật cùng với các lực lượng nội gián, tay sai bản xứ đã sử dụng vũ lực để thôn tính cũng như sáp nhập Đế quốc Đại Hàn vào lãnh thổ của mình.