Amygdalin
From Wikipedia, the free encyclopedia
Amygdalin (Tiếng Hy Lạp cổ đại: ἀμυγδαλή amygdálē - "hạnh nhân") là một hợp chất hóa học tự nhiên được nhầm lẫn như một phương pháp chữa bệnh ung thư. Nó được tìm thấy trong nhiều loại thực vật, nhưng đáng chú ý nhất là trong hạt (nhân) của quả mơ, hạnh đắng, táo, đào và mận.
Amygdalin | |
---|---|
Danh pháp IUPAC | [(6-O-β-D-Glucopyranosyl-β-D-glucopyranosyl)oxy](phenyl)acetonitrile |
Nhận dạng | |
Số CAS | 29883-15-6 |
PubChem | 34751 |
MeSH | Amygdalin |
ChEBI | 17019 |
ChEMBL | 461727 |
Ảnh Jmol-3D | ảnh ảnh 2 |
SMILES | đầy đủ
|
InChI | đầy đủ
|
UNII | 214UUQ9N0H |
Thuộc tính | |
Khối lượng mol | 457.429 |
Điểm nóng chảy | 223-226 °C(lit.) |
Điểm sôi | |
Độ hòa tan trong nước | H2O: 0.1 g/mL hot, clear to very faintly turbid, colorless |
Các nguy hiểm | |
NFPA 704 |
|
Ký hiệu GHS | |
Báo hiệu GHS | Warning |
Chỉ dẫn nguy hiểm GHS | H302 |
Chỉ dẫn phòng ngừa GHS | P264, P270, P301+P312, P330, P501 |
Các hợp chất liên quan | |
Hợp chất liên quan | Vicianin, laetrile, prunasin, sambunigrin |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa). |
Amygdalin được phân loại là một glycoside cyanogenic vì mỗi phân tử amygdalin bao gồm một nhóm nitrile, nhóm này có thể được giải phóng dưới dạng anion cyanide độc hại nhờ tác động của beta-glucosidase. Ăn amygdalin sẽ khiến nó bị phân huỷ giải phóng xyanua trong cơ thể người, và có thể dẫn đến ngộ độc xyanua.[1]
Kể từ đầu những năm 1950, cả amygdalin và một dẫn xuất hóa học có tên laetrile đã được quảng cáo là phương pháp điều trị ung thư thay thế, thường được gọi nhầm là vitamin B17 (thực chất thì cả amygdalin và laetrile đều không phải là vitamin).[2] Nghiên cứu khoa học cho thấy chúng không có hiệu quả về mặt lâm sàng trong điều trị ung thư, cũng như có khả năng gây độc hoặc gây chết người khi uống do ngộ độc xyanua.[3] Việc quảng cáo laetrile để điều trị ung thư đã được mô tả trong các tài liệu y học như một ví dụ điển hình về lang băm,[4][5] và là "quảng cáo lang băm nhất, phức tạp nhất và chắc chắn là có thù lao nhất trong lịch sử y học".[2]