Bismarck (lớp thiết giáp hạm)
lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã / From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp thiết giáp hạm Bismarck là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (Kriegsmarine) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này bao gồm hai chiếc: Bismarck được đặt lườn vào tháng 7 năm 1936 và nhập biên chế vào tháng 9 năm 1940, Tirpitz được đặt lườn vào tháng 10 năm 1936 và nhập biên chế vào tháng 2 năm 1941. Được phát triển để đối phó với lớp thiết giáp hạm Richelieu của Hải quân Pháp, đây là lớp tàu chiến lớn và mạnh mẽ nhất của Hải quân Đức Quốc Xã lúc bấy giờ,[4] với mức trọng tải lên đến hơn 41.000 tấn, được trang bị tám khẩu pháo 380 mm và có thể đạt được vận tốc tối đa 30 hải lý/giờ (56 km/h; 35 mph). Lớp Bismarck được thiết kế với vai trò truyền thống là giao chiến với các thiết giáp hạm của đối phương trong vùng biển nhà, mặc dù Bộ Tư lệnh Hải quân Đức Quốc Xã đã hình dung đến việc sử dụng chúng để thực hiện các đợt săn lùng tầm xa và tấn công tiêu diệt các đoàn tàu buôn của người Anh ở khu vực Đại Tây Dương. Do vậy, thiết kế của lớp thiết giáp hạm này là kết quả của sự mâu thuẫn chiến lược của Hải quân Đức Quốc Xã, vốn đã tạo ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng lực lượng hải quân của họ trong những năm 1930.
Thiết giáp hạm Bismarck vào năm 1940 | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp thiết giáp hạm Bismarck |
Bên khai thác | Hải quân Đức Quốc xã |
Lớp trước | Lớp Scharnhorst |
Lớp sau | Lớp H (kế hoạch) |
Thời gian đóng tàu | 1936–1941 |
Thời gian hoạt động | 1940–1944 |
Hoàn thành | 2 |
Bị mất | 2 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Thiết giáp hạm |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 36 m (118 ft 1 in) |
Mớn nước | 9,30 m (30 ft 6 in) tiêu chuẩn[lower-alpha 1] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 30 hải lý trên giờ (56 km/h; 35 mph) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 4 × thủy phi cơ Arado Ar 196 |
Hệ thống phóng máy bay | 1 x máy phóng thủy phi cơ hai đầu |
Cả hai con tàu của lớp đều có quãng thời gian hoạt động ngắn ngủi. Bismarck chỉ tiến hành được duy nhất một chiến dịch, Chiến dịch Rheinübung, với nhiệm vụ tiến công ra vùng biển Bắc Đại Tây Dương để săn các đoàn tàu vận tải khởi hành từ Bắc Mỹ tới Anh. Trong chiến dịch này, Bismarck đã bắn chìm tàu chiến-tuần dương HMS Hood và làm hư hại nặng thiết giáp hạm HMS Prince of Wales của Hải quân Hoàng gia Anh tại eo biển Đan Mạch, nhưng bị đánh chìm vào ngày 27 tháng 5 năm 1941 sau khi bị tàu chiến của Hải quân Hoàng Gia Anh truy đuổi và tấn công suốt ba ngày liên tục.
Không như Bismarck, Tirpitz có một sự nghiệp trầm lặng hơn. Sau một thời gian ngắn hoạt động ở Biển Baltic vào năm 1941, Tirpitz được điều động về vùng biển Na Uy nhằm tạo ra các mối đe dọa tiềm tàng tới các đoàn tàu vận tải khởi hành từ Anh đến Liên Xô. Tirpitz bị tấn công liên tục bởi các đơn vị Hải quân Hoàng gia và Không quân Hoàng gia Anh từ năm 1942 tới năm 1944, nhưng con tàu không chịu nhiều hư hại đáng kể. Tháng 11 năm 1944, Tirpitz trúng hai quả bom Tallboy được thả từ máy bay ném bom Lancaster của Không quân Hoàng gia Anh trong Chiến dịch Catechism, tạo ra một chuỗi vụ nổ lớn và khiến con tàu bị lật úp tại vùng nước nông. Sau khi chiến tranh kết thúc, xác con tàu mới được trục vớt và bán tháo dỡ.