Bệnh than
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trước khi sử dụng những thông tin này, độc giả cần liên hệ và nhận sự tư vấn của các bác sĩ chuyên môn.
Bệnh than (từ nguyên tiếng Hy Lạp Άνθραξ nghĩa là than, còn gọi là bệnh nhiệt thán, tên khoa học: Anthrax) là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi khuẩn Bacillus anthracis gây ra trên các loài động vật máu nóng (gồm có gia súc, động vật hoang dã và con người), ở một vài dạng vi khuẩn có độc tính rất cao[1][2][3].
Nó có thể xảy ra ở 4 dạng là: da, phổi, ruột và tim.[4] Các triệu chứng khởi phát từ một ngày đến hơn hai tháng sau khi nhiễm trùng.[5] Ở dạng da, người bệnh có vết phồng rộp nhỏ và xung quanh sưng tấy, thường biến thành vết loét không đau với tâm màu đen.[5] Dạng phổi có biểu hiện sốt, đau ngực và khó thở.[5] Dạng ruột có biểu hiện tiêu chảy, có thể kèm theo máu, đau bụng, buồn nôn và nôn.[5] Dạng tiêm có biểu hiện sốt và áp xe tại chỗ tiêm thuốc.[5]
Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh, những mô tả lâm sàng đầu tiên về bệnh than trên da đã được Maret đưa ra vào năm 1752 và Fournier vào năm 1769. Trước đó bệnh than chỉ được mô tả qua các tài liệu lịch sử. Nhà khoa học Robert Koch đã nghiên cứu về Bacillus anthracis, loại vi khuẩn gây bệnh than.
Bệnh than lây lan khi tiếp xúc với bào tử của vi khuẩn, thường xuất hiện trong các sản phẩm của động vật bị nhiễm.[6] Tiếp xúc là qua hít thở, ăn uống hoặc qua vùng da bị xước.[6] Nó thường không lây lan trực tiếp giữa người với người.[6] Các yếu tố làm tăng rủi ro bao gồm những người làm việc với động vật hoặc sản phẩm động vật, khách du lịch và quân nhân.[7] Có thể xác nhận chẩn đoán bằng cách tìm kháng thể hoặc độc tố trong máu hoặc bằng cách cấy mẫu từ vị trí bị nhiễm bệnh.[8]
Tiêm phòng bệnh than được khuyến khích cho những người có nguy cơ nhiễm bệnh cao.[7] Việc tiêm chủng cho động vật chống lại bệnh than được khuyến khích ở những khu vực đã từng bị nhiễm bệnh trước đó.[6] Một đợt thuốc kháng sinh kéo dài hai tháng như ciprofloxacin, levofloxacin và doxycycline sau khi tiếp xúc cũng có thể ngăn ngừa việc nhiễm bệnh.[9] Nếu bị nhiễm bệnh, phải điều trị bằng thuốc kháng sinh và có thể là thuốc kháng độc tố.[10] Loại và số lượng kháng sinh được sử dụng tùy thuộc vào loại nhiễm trùng.[9] Thuốc kháng độc tố được khuyên dùng cho những người bị nhiễm trùng lan rộng.[9]
Là một căn bệnh hiếm gặp, bệnh than ở người phổ biến nhất ở châu Phi và các khu vực trung và nam châu Á[11] Nó cũng xảy ra thường xuyên ở Nam Âu hơn những nơi khác trên lục địa này và không phổ biến ở Bắc Âu và Bắc Mỹ.[12] rên toàn cầu, ít nhất 2.000 trường hợp xảy ra mỗi năm, với khoảng hai trường hợp mỗi năm ở Hoa Kỳ.[13][14] Nhiễm trùng da chiếm hơn 95% các trường hợp.[15] Nếu không điều trị, nguy cơ tử vong do bệnh than trên da là 23,7%.[9] Đối với nhiễm trùng đường ruột, nguy cơ tử vong là 25 đến 75%, trong khi bệnh than đường hô hấp có tỷ lệ tử vong từ 50 đến 80%, ngay cả khi được điều trị.[9][15]
Cho đến thế kỷ 20, bệnh than đã giết chết hàng trăm nghìn người và động vật mỗi năm.[16] Nó đã được một số quốc gia phát triển làm vũ khí sinh học.[15] Ở động vật ăn cỏ, nhiễm trùng xảy ra khi chúng ăn hoặc hít thở phải bào tử trong khi chăn thả.[11] Động vật cũng có thể bị nhiễm bệnh khi ăn thịt con vật bị nhiễm bệnh[11]