Chiến dịch Xuân – Hè 1972
chiến dịch quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam chống lại quân đội Mỹ–VNCH năm 1972 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Xuân – Hè 1972, còn được biết đến với tên gọi Mùa hè đỏ lửa (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc Easter Offensive ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh"; theo cách gọi của Hoa Kỳ), là một phần trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam, diễn ra từ ngày 30 tháng 3 năm 1972 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 trong Chiến tranh Việt Nam, là một nhóm các chiến dịch do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), chống lại quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Đây là cuộc tổng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống phòng ngự tại những hướng chiến lược quan trọng: Quảng Trị – Thừa Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V và Khu VIII (Nam Bộ). Cuộc tiến công bắt đầu ngày 30 tháng 3 năm 1972[8] và kéo dài tới 31 tháng 1 năm 1973.
Chiến dịch Xuân – Hè 1972 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
Sơ đồ trận tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ của Quân đội Nhân dân Việt Nam | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Creighton Abrams Frederick C. Weyand James L. Holloway III John W. Vogt Jr John Dale Ryan Gerald W. Johnson Andrew B. Anderson Glenn R. Sullivan Ngô Quang Trưởng Nguyễn Văn Toàn Lê Văn Hưng |
Võ Nguyên Giáp Lê Trọng Tấn Hoàng Văn Thái Văn Tiến Dũng Trần Văn Trà Hoàng Minh Thảo | ||||||
Lực lượng | |||||||
Tổng cộng: trên 810.000 (gồm 65.000 lính Mỹ) 13 sư đoàn và 11 lữ đoàn quân chủ lực[1] và quân Địa phương tại các nơi diễn ra chiến sự Trang bị: 2.090 xe chiến đấu (472 xe tăng, 1.618 xe thiết giáp) 1.692 máy bay và trực thăng các loại, 1.611 tàu chiến và ca-nô[2] Không quân Hoa Kỳ (1.270 máy bay, vài trăm trực thăng) và Hạm đội 7 (có 6 tàu sân bay, 135 tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu nổi khác). |
Tổng cộng: trên 200.000 quân chính quy Gồm 14 sư đoàn, 26 trung đoàn độc lập[3] Hàng trăm nghìn dân quân, du kích hỗ trợ Trang bị: 322 xe tăng và xe thiết giáp[4] Khoảng 100 máy bay các loại (chỉ phòng thủ không phận miền Bắc). | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Tính chung cả năm 1972: Quân đội Nhân dân Việt Nam thống kê: 213.307 chết hoặc bị thương, 13.000 bị bắt.[6] Tổn thất trang bị: Khoảng 1.000 xe tăng và xe thiết giáp bị phá hủy Vài trăm máy bay và trực thăng bị bắn rơi Vài chục tàu chiến bị bắn chìm hoặc bắn cháy |
Tính chung cả năm 1972 Tổn thất trang bị: Khoảng 250 xe tăng và xe thiết giáp bị phá hủy 54 máy bay bị bắn rơi[cần dẫn nguồn] |