Huân chương Chiến công
huân chương Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Huân chương Chiến công là một loại huân chương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), được đặt ra lần đầu tiên theo Sắc lệnh số 50-SL ngày 15 tháng 5 năm 1947 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[1] và đặt ra lần hai theo Luật Thi đua - Khen thưởng (ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003)[2]. Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), thì Huân chương Chiến công còn gọi là Huân chương Chiến sĩ.
Huân chương Chiến công | |
---|---|
Huân chương Chiến công | |
Trao bởi Việt Nam | |
Loại | Huân chương |
Ngày thành lập | 15 tháng 5 năm 1947 (1947-05-15) |
Quốc gia | Việt Nam |
Cuống | |
Tư cách | Cá nhân, tập thể |
Tiêu chí | Có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng Lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố quốc phòng |
Tình trạng | hiện hành |
Sáng lập | Hồ Chí Minh |
Phân hạng | 3 hạng |
Thông tin khác | |
Bậc trên | Huân chương Bảo vệ Tổ quốc |
Bậc dưới | Huân chương Đại đoàn kết dân tộc |
Cuống huân chương (Trước năm 2014) | |
Huân chương Chiến công để tặng cho đơn vị, tặng và truy tặng cho cá nhân trong các Lực lượng vũ trang nhân dân lập được chiến công. Vào những dịp tổng kết, Huân chương Chiến công để tặng cho những đơn vị và cá nhân có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng Lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố quốc phòng.
Huân chương Quân công có ba hạng được phân biệt bằng số sao đính trên dải và cuống huân chương: hạng nhất có 3 sao, hạng nhì có 2 sao, hạng ba có 1 sao. Trong bậc thang khen thưởng, Huân chương Chiến công ở dưới Huân chương Quân công. Thẩm quyền tặng, truy tặng Huân chương Quân công do Chủ tịch nước quyết định.