Jimmy Carter
Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ (1977-1981) / From Wikipedia, the free encyclopedia
James Earl "Jimmy" Carter, Jr (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1924) là một chính khách, Tổng thống thứ 39 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (1977–1981), ông được trao tặng Giải Nobel Hòa bình năm 2002. Trước đó, ông là thống đốc thứ 76 của Tiểu bang Georgia (1971-1975).[1] Năm 1976, Carter là ứng cử viên đại diện của Đảng Dân chủ tranh cử chiếc ghế Tổng thống, ông được xem là "ngựa ô" trong cuộc đua vào Nhà Trắng, rồi vượt qua Tổng thống đương nhiệm Gerald Ford với chiến thắng sít sao trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1976.
Jimmy Carter | |
---|---|
Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ | |
Nhiệm kỳ 20 tháng 1 năm 1977 – 20 tháng 1 năm 1981 4 năm, 0 ngày | |
Phó Tổng thống | Walter Mondale |
Tiền nhiệm | Gerald Ford |
Kế nhiệm | Ronald Reagan |
Thống đốc thứ 76 của Georgia | |
Nhiệm kỳ 12 tháng 1 năm 1971 – 14 tháng 1 năm 1975 4 năm, 2 ngày | |
Phó Thống đốc | Lester Maddox |
Tiền nhiệm | Lester Maddox |
Kế nhiệm | George Busbee |
Thượng nghị sĩ Georgia từ khu vực 14 | |
Nhiệm kỳ 14 tháng 1 năm 1963 – 10 tháng 1 năm 1967 3 năm, 361 ngày | |
Tiền nhiệm | Khu bầu cử thành lập |
Kế nhiệm | Hugh Carter |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | James Earl Carter Jr. 1 tháng 10, 1924 (99 tuổi) Plains, Georgia, Hoa Kỳ |
Đảng chính trị | Đảng Dân chủ |
Phối ngẫu | |
Quan hệ |
|
Con cái | 4, bao gồm Jack và Amy |
Cha mẹ | James Earl Carter Sr. Bessie Lillian Gordy |
Cư trú | Plains, Georgia, Hoa Kỳ |
Alma mater | Học viện Công nghệ Georgia Học viện Hải quân Hoa Kỳ |
Chuyên nghiệp | |
Tặng thưởng | Giải Nobel Hoà bình American Campaign Medal World War II Victory Medal China Service Medal National Defense Service Medal |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Hoa Kỳ |
Phục vụ | Hải quân Hoa Kỳ |
Năm tại ngũ | 1943–1953 (Hải quân) 1953–1961 (Hải quân Dự bị) |
Cấp bậc | Đại uý |
Nhiệm kỳ tổng thống của Carter đánh dấu với sự suy thoái khi nước Mỹ gánh chịu những thiệt hại nặng nề sau Chiến tranh Việt Nam, cùng với sự trì trệ kinh tế trong nước. Với vụ khủng hoảng con tin tại Iran, và sự kiện quân đội Liên Xô xâm chiếm Afghanistan năm 1979, Hoa Kỳ chứng kiến sự ảnh hưởng của mình đang bị suy giảm trên trường quốc tế. Lạm phát và lãi suất lên đến đỉnh điểm kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, khi chính phủ cho đóng băng giá dầu nội địa hầu đối phó với việc tăng giá dầu từ OPEC; các chỉ số lạm phát và thất nghiệp tăng 50% trong bốn năm.
Trong số các thành tựu chính phủ Carter đạt được cần kể đến Thoả ước Kênh đào Panama, Hòa ước Trại David, Hiệp ước SALT II với Liên Xô và việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Carter tích cực đấu tranh cho nhân quyền trên quy mô toàn cầu và xem nhân quyền là tâm điểm cho chính sách đối ngoại của chính phủ ông. Carter theo đuổi chính sách khuyến khích các nước khác tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất, là chuẩn mực đạo đức mà ông tin rằng người dân Mỹ cũng muốn tuân thủ.[2]
Nhưng Carter thất bại trong nỗ lực cải cách thuế, thu hẹp bộ máy hành chính của chính quyền, như ông đã hứa khi ra tranh cử năm 1976. Carter cũng không thể thông qua đạo luật thiết lập ngày quốc lễ kỷ niệm Martin Luther King, Jr., dù Đảng Dân chủ của ông đang nắm quyền kiểm soát tại lưỡng viện Quốc hội lẫn Tòa Bạch Ốc. Nhiệm kỳ này của Tổng thống Carter chứng kiến sự ra đời của hai bộ năng lượng và giáo dục, cũng như sự thông qua các đạo luật bảo vệ môi trường. Ông thiết lập chính sách năng lượng quốc gia,[3] và củng cố các cơ quan chính quyền, ban hành những đạo luật ủng hộ mạnh mẽ chủ trương bảo vệ môi trường; điều chỉnh các quy định về vận tải đường bộ, hàng không, đường sắt, tài chính, truyền thông và công nghiệp dầu mỏ cũng như hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội; ông lập kỷ lục trong việc bổ nhiệm phụ nữ và các nhân vật thuộc chủng tộc thiểu số vào các vị trí hành pháp và tư pháp.
Những người chỉ trích xem sự kiện khủng hoảng con tin tại Iran là đòn chí tử đánh vào lòng tự hào dân tộc; Carter đã phải liên tục tranh đấu trong 444 ngày tìm kiếm sự phóng thích cho các con tin. Sự thất bại trong nỗ lực giải thoát con tin dẫn đến sự từ chức của Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance. Các con tin chỉ được trả tự do sau khi Carter rời bỏ chức vụ, năm phút sau lễ nhậm chức của Ronald Reagan.
Tuy nhiên, sau khi rời Tòa Bạch Ốc, Carter nhận được nhiều sự kính trọng trong vai trò trung gian hòa giải và kiến tạo hòa bình trên chính trường quốc tế. Ông cũng hành động tích cực với cương vị một cựu tổng thống Hoa Kỳ trong nỗ lực phát triển các hoạt động từ thiện. Ông đi đến nhiều nơi trên thế giới để quan sát các cuộc bầu cử, xúc tiến những vòng đàm phán cho hòa bình, và thiết lập nhiều đề án cứu trợ.[4] Năm 1982, ông thành lập Trung tâm Carter như là một diễn đàn cho các vấn đề liên quan đến dân chủ và nhân quyền. Năm 2002, Carter được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho "những nỗ lực của ông nhằm tìm kiếm các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột quốc tế, nhằm thăng tiến dân chủ và nhân quyền, và thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội".
Carter tiếp tục duy trì sự hợp tác tích cực và lâu dài với Tổ chức Hỗ trợ Gia cư (Habitat for Humanity), một tổ chức từ thiện Cơ Đốc với mục tiêu xây dựng nhà ở cho người nghèo.[5]