Ngữ hệ Maya
Ngữ hệ chính của thế giới phân bố ở Trung Bộ châu Mỹ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Ngữ hệ Maya là một ngữ hệ được nói tại Trung Bộ châu Mỹ và miền bắc Trung Mỹ. Các ngôn ngữ Maya được nói bởi ít nhất 6 triệu người, thuộc các dân tộc Maya, chủ yếu tại Guatemala, México, Belize và Honduras. Năm 1996, Guatemala chính thức công nhận 21 ngôn ngữ Maya,[2] và México công nhận thêm tám ngôn ngữ nữa trong biên giới của họ.[ghi chú 1]
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Anh. (Tháng 12/2022) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Ngữ hệ Maya
| |
---|---|
Phân bố địa lý | Trung Bộ châu Mỹ: Nam México; Guatemala; Belize; Tây Honduras và El Salvador; số ít người nhập cư và tị nạn, chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada |
Phân loại ngôn ngữ học | Một trong những ngữ hệ chính trên thế giới. |
Ngôn ngữ nguyên thủy: | Maya nguyên thủy |
Ngôn ngữ con: |
|
ISO 639-2 / 5: | myn |
Glottolog: | maya1287[1] |
Phân bố của dân cư nói ngôn ngữ Maya. |
Ngữ hệ Maya là một trong những ngữ hệ được ghi nhận và nghiên cứu nhiều nhất châu Mỹ.[3] Các ngôn ngữ Maya hiện đại đều xuất phát từ ngôn ngữ Maya nguyên thủy, được cho là từng được nói cách đây ít nhất 5,000 năm, và đã được tái dựng bằng phương thức so sánh. Ngôn ngữ Maya nguyên thủy đã phát triển thành ít nhất sáu nhánh con: Huastec, Quiche, Yucatec, Q'anjobal, Mam và Ch'ol-Tzeltal.
Các ngôn ngữ Maya tạo nên một phần của vùng ngôn ngữ Trung Bộ châu Mỹ, một khu vực hội tụ ngôn ngữ phát triển qua hàng nghìn năm tiếp xúc giữa các tộc người tại đây. Tất cả ngôn ngữ Maya thể hiện các nét cơ bản của vùng ngôn ngữ này. Ví dụ, tất cả đều dùng danh từ quan hệ thay vì giới từ để thể hiện mối quan hệ không gian. Chúng cũng sở hữu những đặc điểm ngữ pháp và loại hình tách biệt chúng khỏi các ngôn ngữ khác tại vùng Trung Bộ châu Mỹ, như việc sử dụng khiển cách (ergative) với động từ và chủ ngữ-tân ngữ của chúng, những thể loại biến tố riêng biệt với động từ, và một lớp từ cho "các vị trí" điển hình trong cả hệ Maya.
Trong thời kỳ tiền Colombo của lịch sử Trung Bộ châu Mỹ, một vài ngôn ngữ Maya được viết bằng hệ thống chữ Maya tượng hình. Việc sử dụng loại chữ này phổ biến trong suốt thời kỳ Cổ điển của nền văn minh Maya (khoảng 250–900). Một tập hợp gồm 10.000 bản ghi của người Maya còn tồn tại đến nay, nằm trên các kiến trúc, công trình, đồ gốm và bản thảo,[4] kết hợp với nền văn học giàu có thời hậu thuộc địa, viết bằng chữ Latinh, đã cung cấp cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử châu Mỹ thời tiền Colombo.