Quan thoại Hạ Giang
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quan thoại Hạ Giang (giản thể: 下江官话; phồn thể: 下江官話; Hán-Việt: Hạ Giang Quan thoại; bính âm: xiàjiāng guānhuà) là một trong những cụm phương ngôn khác biệt và khó thông hiểu nhất (với người nói Quan thoại tiêu chuẩn) trong nhóm Quan thoại. Nó còn mang tên Quan thoại Giang-Hoài (giản thể: 江淮官话; phồn thể: 江淮官話; Hán-Việt: Giang Hoài Quan thoại; bính âm: jiānghuái guānhuà), theo tên Trường Giang (Dương Tử) và Hoài Hà. Một nét khác biệt giữa Quan thoại Hạ Giang với phần còn lại của nhóm Quan thoại là việc âm tắc cuối từ (*-p, *-t, *-k) trong tiếng Hán trung cổ trở thành âm tắc thanh hầu (*-ʔ) thay vì biến mất hoàn toàn.
Quan thoại Hạ Giang | |
---|---|
Quan thoại Giang-Hoài | |
Khu vực | Vùng sông Hoài và Dương Tử (An Huy, Giang Tô, Hồ Bắc, Giang Tây, Hà Nam) |
Tổng số người nói | khoảng 70 triệu (2011) |
Phân loại | Hán-Tạng
|
Hệ chữ viết | Chữ Hán (Bạch thoại) |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-3 | Không |
Glottolog | jing1262 [1] |
Linguasphere | 79-AAA-bi |
Vào nhà Minh rồi đầu nhà Thanh, ngôn ngữ chung trong hành chính đương thời dựa trên một dạng Quan thoại Hạ Giang. Đến thế kỷ XIX, phương ngữ Bắc Kinh trở thành ngôn ngữ uy tín mới.