Ruud Gullit
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ruud Gullit (phát âm tiếng Hà Lan: [ˈryt ˈxʏlɪt] ( nghe);[5] tên khai sinh Rudi Dil; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1962) là một cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan và sau đó là huấn luyện viên thi đấu chuyên nghiệp trong những năm 1980 và 1990 ở vị trí hậu vệ, tiền vệ hoặc tiền đạo. Ông được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại.[6] Năm 2004, ông được vinh danh là một trong Top 125 cầu thủ còn sống vĩ đại nhất trong khuôn khổ lễ kỷ niệm 100 năm thành lập FIFA.[7]
Gullit ở Doha năm 2012 | ||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Ruud Gullit[1] | |||||||||||||||||||
Tên khai sinh | Rudi Dil[2] | |||||||||||||||||||
Ngày sinh | 1 tháng 9, 1962 (61 tuổi)[1] | |||||||||||||||||||
Nơi sinh | Amsterdam, Hà Lan[1] | |||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,91 m (6 ft 3 in)[3] | |||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo, tiền vệ, hậu vệ | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||
1967–1975 | ASV Meerboys | |||||||||||||||||||
1975–1979 | DWS[4] | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
1979–1982 | HFC Haarlem | 91 | (32) | |||||||||||||||||
1982–1985 | Feyenoord | 85 | (30) | |||||||||||||||||
1985–1987 | PSV | 68 | (46) | |||||||||||||||||
1987–1994 | Milan | 125 | (38) | |||||||||||||||||
1993–1994 | → Sampdoria (mượn) | 31 | (15) | |||||||||||||||||
1994–1995 | Sampdoria | 22 | (9) | |||||||||||||||||
1995–1998 | Chelsea | 48 | (4) | |||||||||||||||||
Tổng cộng | 470 | (174) | ||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
1979 | U-21 Hà Lan | 4 | (1) | |||||||||||||||||
1981–1994 | Hà Lan | 66 | (17) | |||||||||||||||||
Sự nghiệp quản lý | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||
1996–1998 | Chelsea (cầu thủ-huấn luyện viên trưởng) | |||||||||||||||||||
1998–1999 | Newcastle United | |||||||||||||||||||
2004–2005 | Feyenoord | |||||||||||||||||||
2007–2008 | LA Galaxy | |||||||||||||||||||
2011 | Terek Grozny | |||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Ông là đội trưởng của đội tuyển quốc gia Hà Lan đã vô địch UEFA Euro 1988 và cũng là thành viên của đội tuyển tham dự FIFA World Cup 1990 và UEFA Euro 1992.
Ở cấp câu lạc bộ, năm 1987, ông chuyển từ PSV sang AC Milan với mức phí chuyển nhượng kỷ lục thế giới.[8] Có biệt danh là "Tulip đen", ông là một phần của bộ ba người Hà Lan đáng chú ý tại Milan, bao gồm Marco van Basten và Frank Rijkaard. Gullit đã giành ba chức vô địch Serie A và hai cúp châu Âu cùng Milan. Năm 1995, anh ký hợp đồng với Chelsea và một năm sau được bổ nhiệm làm cầu thủ kiêm quản lý của câu lạc bộ. Trong mùa giải đầu tiên của mình, ông đã dẫn dắt Chelsea đến thành công tại FA Cup, danh hiệu lớn đầu tiên của câu lạc bộ trong 26 năm, và nhờ đó trở thành huấn luyện viên nước ngoài đầu tiên giành được FA Cup.
Gullit đã giành Ballon d'Or năm 1987 và được vinh danh là Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới năm 1987 và 1989. Bình thường là một tiền vệ tấn công,[9] ông là một cầu thủ đa năng, chơi ở nhiều vị trí trong sự nghiệp của mình.