Shimon Peres
From Wikipedia, the free encyclopedia
Shimon Peres (ngheⓘ; tiếng Hebrew: שמעון פרס; tên khai sinh Szymon Perski; 2 tháng 8 năm 1923 – 28 tháng 9 năm 2016) là Tổng thống thứ 9 của Nhà nước Israel (2007 – 2014). Peres từng hai lần giữ chức Thủ tướng Israel và một lần là Quyền Thủ tướng, suốt thập niên 70 đến thập niên 90, và từng là thành viên của 12 nội các trong sự nghiệp chính trị kéo dài hơn 66 năm.[1] Peres được bầu vào Knesset tháng 11 năm 1959 và, ngoại trừ một thời gian gián đoạn ba tháng đầu năm 2006, phục vụ liên tục cho tới năm 2007, khi ông trở thành Tổng thống. Tháng 11 năm 2008 ông đã được Nữ hoàng Elizabeth II tặng danh hiệu Hiệp sĩ danh dự.
Shimon Peres | |
---|---|
Tổng thống thứ 9 của Israel | |
Nhiệm kỳ 15 tháng 7 năm 2007 – 24 tháng 7 năm 2014 7 năm, 9 ngày | |
Thủ tướng | Ehud Olmert Benjamin Netanyahu |
Tiền nhiệm | Moshe Katsav |
Kế nhiệm | Reuven Rivlin |
Thủ tướng thứ 8 của Israel | |
Nhiệm kỳ 4 tháng 11 năm 1995 – 18 tháng 6 năm 1996 Quyền: 4 tháng 11 năm 1995 – 22 tháng 11 năm 1995 227 ngày | |
Tổng thống | Ezer Weizman |
Tiền nhiệm | Yitzhak Rabin |
Kế nhiệm | Benjamin Netanyahu |
Nhiệm kỳ 13 tháng 9 năm 1984 – 20 tháng 10 năm 1986 2 năm, 37 ngày | |
Tổng thống | Chaim Herzog |
Tiền nhiệm | Yitzhak Shamir |
Kế nhiệm | Yitzhak Shamir |
Nhiệm kỳ 22 tháng 4 năm 1977 – 21 tháng 6 năm 1977 Quyền 60 ngày | |
Tổng thống | Ephraim Katzir |
Tiền nhiệm | Yitzhak Rabin |
Kế nhiệm | Menachem Begin |
Bộ trưởng Ngoại giao | |
Nhiệm kỳ 7 tháng 3 năm 2001 – 2 tháng 11 năm 2002 1 năm, 240 ngày | |
Thủ tướng | Ariel Sharon |
Thứ trưởng | Michael Melchior |
Tiền nhiệm | Shlomo Ben-Ami |
Kế nhiệm | Benjamin Netanyahu |
Nhiệm kỳ 14 tháng 7 năm 1992 – 22 tháng 11 năm 1995 3 năm, 131 ngày | |
Thủ tướng | Yitzhak Rabin |
Thứ trưởng | Yossi Beilin Eli Dayan |
Tiền nhiệm | David Levy |
Kế nhiệm | Ehud Barak |
Nhiệm kỳ 20 tháng 10 năm 1986 – 23 tháng 12 năm 1988 2 năm, 64 ngày | |
Thủ tướng | Yitzhak Shamir |
Tiền nhiệm | Yitzhak Shamir |
Kế nhiệm | Moshe Arens |
Bộ trưởng Quốc phòng | |
Nhiệm kỳ 4 tháng 11 năm 1995 – 18 tháng 6 năm 1996 227 ngày | |
Tiền nhiệm | Yitzhak Rabin |
Kế nhiệm | Yitzhak Mordechai |
Nhiệm kỳ 3 tháng 6 năm 1974 – 20 tháng 3 năm 1977 2 năm, 290 ngày | |
Thủ tướng | Yitzhak Rabin |
Tiền nhiệm | Moshe Dayan |
Kế nhiệm | Ezer Weizman |
Bộ trưởng Tài chính | |
Nhiệm kỳ 22 tháng 12 năm 1988 – 15 tháng 3 năm 1990 1 năm, 83 ngày | |
Thủ tướng | Yitzhak Shamir |
Tiền nhiệm | Moshe Nissim |
Kế nhiệm | Yitzhak Shamir |
Bộ trưởng Vận tải | |
Nhiệm kỳ 1 tháng 9 năm 1970 – 10 tháng 3 năm 1974 3 năm, 190 ngày | |
Thủ tướng | Golda Meir |
Tiền nhiệm | Ezer Weizman |
Kế nhiệm | Aharon Yariv |
Nghị sĩ Quốc hội | |
Nhiệm kỳ 3 tháng 11 năm 1959 – 13 tháng 6 năm 2007 47 năm, 222 ngày | |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Szymon Perski 2 tháng 8 năm 1923 Wiszniew, Ba Lan |
Mất | 28 tháng 9 năm 2016 (93 tuổi) Trung tâm Y tế Sheba, Tel HaShomer, Ramat Gan, Israel |
Nơi an nghỉ | Mount Herzl, Jerusalem, Israel |
Đảng chính trị | Mapai (1959–1965) Rafi (1965–1968) Đảng Lao động (1968–2005) Kadima (2005–2016) |
Đảng khác | Đảng Liên kết (1965–1991) |
Phối ngẫu | Sonya Gelman (cưới 1945–2011) |
Con cái | Zvia Yoni Chemi |
Alma mater | The New School Đại học New York Đại học Harvard |
Tặng thưởng | Giải Nobel Hoà bình (1994) |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Israel |
Phục vụ | Haganah Lực lượng Phòng vệ Israel |
Ra đời tại Wiszniewo, ở Ba Lan (hiện ở Belarus) năm 1923, Peres đã cùng gia đình chuyển tới lãnh thổ Palestine Ủy trị năm 1934. Ông đã giữ nhiều chức vụ ngoại giao và quân sự trong và trực tiếp sau cuộc chiến tranh giành độc lập của Israel. Chức vụ cao cấp đầu tiên trong chính phủ của ông là Thứ trưởng Quốc phòng năm 1952, và Bộ trưởng Quốc phòng năm 1953 tới năm 1959.[2] Trong sự nghiệp của mình, ông đã đại diện cho năm đảng chính trị trong Knesset: Mapai, Rafi, Liên kết, Công Đảng và Kadima, và đã từng lãnh đạo Liên kết và Công Đảng. Peres đã giành Giải Nobel Hoà bình năm 1994 cùng với Yitzhak Rabin và Yasser Arafat vì những cuộc đàm phán hoà bình ông tham gia với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao Israel, dẫn tới Hiệp định Oslo.[2] Đầu năm 2007 Peres được Kadima đề cử chạy đua trong cuộc bầu cử tổng thống, và được Knesset bầu làm tổng thống ngày 13 tháng 6 năm 2007 và đã tuyên thệ trở thành cựu Thủ tướng đầu tiên được bầu làm Tổng thống Israel ngày 15 tháng 7 năm 2007 với nhiệm kỳ bảy năm.[3][4]