Thịnh vượng chung Philippines
From Wikipedia, the free encyclopedia
Thịnh vượng chung Philippines (tiếng Filipino: Komonwelt ng Pilipinas; tiếng Anh: Commonwealth of the Philippines; tiếng Tây Ban Nha: Mancomunidad de Filipinas)[9] là cơ quan hành chính quản trị Philippines từ năm 1935 đến 1946, trừ thời kỳ lưu vong 1942-1945 trong Chiến tranh thế giới thứ hai khi Nhật Bản chiếm đóng đảo quốc. Cơ quan này thay thế cho Chính phủ đảo dân, và được thiết lập theo Đạo luật Tydings–McDuffie. Thịnh vượng chung được dự kiến là một chính phủ chuyển đổi nhằm chuẩn bị cho đảo quốc giành độc lập hoàn toàn.[10]
Thịnh vượng chung Philippines
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
1935–1943 1945–1946 | |||||||||||||
Vị trí Philippines tại Đông Nam Á. | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Vị thế | Quốc gia liên kết và bảo hộ của Hoa Kỳ | ||||||||||||
Thủ đô | Manilaa | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | |||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Cộng hòa đa đảng | ||||||||||||
Tổng thống | |||||||||||||
• 1935–44 | Manuel L. Quezon | ||||||||||||
• 1944–46 | Sergio Osmeña | ||||||||||||
• 1946 | Manuel A. Roxas | ||||||||||||
Phó Tổng thống | |||||||||||||
• 1935–44 | Sergio Osmeña | ||||||||||||
• 1946 | Elpidio Quirino | ||||||||||||
Lập pháp | |||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Thời kỳ giữa hai thế chiến, Thế chiến II | ||||||||||||
• Đạo luật Tydings–McDuffie | 15 tháng 11[5][6][7][8] 1935 | ||||||||||||
• Độc lập | 4 tháng 7 1946 | ||||||||||||
• Hiệp định Manila | 22 tháng 10 năm 1946 | ||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||
• 1939 | 300.000 km2 (115.831 mi2) | ||||||||||||
Dân số | |||||||||||||
• 1939 | 16000303 | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Peso | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Philippines | ||||||||||||
|
Trong hơn một thập niên tồn tại, Thịnh vượng chung có quyền hành pháp mạnh và có một Tòa án tối cao. Cơ quan lập pháp của Thịnh vượng chung nằm dưới quyền chi phối của Đảng Quốc dân, cơ quan này ban đầu có một viện, về sau có hai viện. Năm 1937, chính phủ lựa chọn ngôn ngữ tại Manila và các tỉnh xung quanh là tiếng Tagalog làm cơ sở cho quốc ngữ, song phải mất nhiều nó mới được sử dụng phổ biến. Quyền bỏ phiếu của nữ giới được phê chuẩn và kinh tế khôi phục mức trước Suy thoái trước khi Nhật Bản chiếm đóng năm 1942.
Chính phủ Thịnh vượng chung lưu vong từ năm 1942 đến năm 1945, khi Philippines bị Nhật Bản chiếm đóng. Năm 1946, Thịnh vượng chung kết thúc và Philippines tuyên bố chủ quyền đầy đủ theo Điều XVIII của Hiến pháp 1935.[11]