Trận Hy Lạp
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Hy Lạp (hay còn gọi là Chiến dịch Marita, tiếng Đức: Unternehmen Marita)[10] là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp được hỗ trợ bởi những lực lượng thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh, còn Đức có các đồng minh trong phe Trục là Ý và Bulgaria đóng vai trò thứ yếu. Trận Hy Lạp thường được phân biệt với cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Ý diễn ra tại tây bắc Hy Lạp và nam Albania từ năm 1940, cũng như với trận Crete sau đó vào cuối tháng 5. Các hoạt động quân sự này cùng với Cuộc xâm lược Nam Tư được gộp chung thành Chiến dịch Balkan trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trận Hy Lạp | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến dịch Balkan trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||
Lược đồ diễn biến cuộc tấn công của Đức Quốc xã vào Hy Lạp | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Bulgaria |
Đồng Minh: Hy Lạp Anh Quốc Úc New Zealand | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Wilhelm List Maximilian von Weichs Emilio Giglioli |
Alexander Papagos Henry Maitland Wilson Thomas Blamey Bernard Freyberg | ||||||
Lực lượng | |||||||
Đức:[1] 680.000 quân, 1.200 xe tăng 700 máy bay 1Ý:[2] 565.000 quân 463 máy bay[3] 163 xe tăng Tổng cộng: 1.245.000 quân |
1Hy Lạp:[4] 430.000 quân, 20 xe tăng Khối Thịnh vượng chung Anh:[5] 262.612 quân 100 xe tăng 200-300 máy bay | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
1Ý:[6] |
1Hy Lạp:[6] 13.325 chết, 62.663 bị thương, 1.290 mất tích Khối Thịnh vượng chung Anh:[5] 903 chết, 1.250 bị thương, 13.958 bị bắt | ||||||
1Các thống kê về lực lượng và thương vong của Ý và Hy Lạp là tính tổng cộng cả trong cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ý và trận Hy Lạp (có ít nhất 300.000 quân Hy Lạp chiến đấu tại Albania[8]). Thống kê thương vong của Đức tính trong toàn bộ chiến dịch Balkan, và dựa trên những tuyên bố của Hitler trước Quốc hội Đức ngày 4 tháng 5 năm 1941.[9] 2Tính cả người Síp và người Palestin. Lực lượng quân đội người Anh, Úc và New Zealand vào khoảng 58.000.[5] |
Chiến dịch Balkan mở màn với cuộc xâm lược Hy Lạp do nước Ý bắt đầu tiến hành từ ngày 28 tháng 10 năm 1940. Trong vòng vài tuần lễ, người Ý đã bị đẩy lui ra khỏi lãnh thổ Hy Lạp và quân đội Hy Lạp chiếm được phần lớn miền nam Albania. Tháng 3 năm 1941, một cuộc phản công lớn của Ý bị thất bại, và Đức Quốc xã buộc phải đến trợ giúp cho đồng minh của mình. Chiến dịch Marita bắt đầu ngày 6 tháng 4 năm 1941, quân đội Đức tiến công qua lãnh thổ Bulgaria nhằm đánh kẹp vào sườn phía nam của Hy Lạp. Các lực lượng hỗn hợp của Hy Lạp và Khối Thịnh vượng chung Anh đã chống trả rất ngoan cường, nhưng do bị áp đảo quá nhiều về quân số và hỏa lực nên cuối cùng tan vỡ. Athens thất thủ ngày 27 tháng 4, nhưng người Anh đã xoay xở sơ tán được khoảng 50.000 quân.[a] Chiến dịch tại Hy Lạp kết thúc bằng chiến thắng tuyệt đối và chóng vánh của Đức khi thành phố Kalamata trên bán đảo Peloponnesus thất thủ, tổng cộng chỉ trong vòng 24 ngày. Cuộc chinh phục Hy Lạp được hoàn thành với việc chiếm đóng đảo Crete một tháng sau đó. Hy Lạp sau đó bị các nước phe Trục chiếm đóng cho đến tháng 10 năm 1944.
Một số sử gia coi chiến dịch của Đức tại Hy Lạp đóng vai trò then chốt trong việc định đoạt tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai, khẳng định rằng nó đã gây ra sự trì hoãn chết người cho cuộc tấn công Liên Xô của phe Trục. Số khác lại cho rằng chiến dịch này không ảnh hưởng đến việc triển khai chiến dịch Barbarossa mà là điều kiện mùa mưa tại Ukraina đã làm hoãn các hoạt động của phe Trục. Có những sử gia tin rằng việc người Anh can thiệp tại Hy Lạp là một động thái vô vọng, một "quyết định chính trị cảm tính" hay thậm chí là một sự "ngớ ngẩn rõ rệt về chiến lược". Cũng có giả thuyết cho rằng chiến lược của Anh là tạo ra một rào cản tại Hy Lạp nhằm bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia trung lập duy nhất nằm giữa khối Trục tại Balkan và khu vực nhiều dầu mỏ Trung Đông.[11]