Ethiopia
quốc gia nằm ở Đông Phi / From Wikipedia, the free encyclopedia
Ethiopia (phiên âm tiếng Việt: Ê-ti-ô-pi-a), tên đầy đủ Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia là một quốc gia nội lục ở vùng sừng châu Phi có chung biên giới với Eritrea về phía bắc, Djibouti về phía đông bắc, Somalia về phía đông, Kenya về phía nam, Nam Sudan về phía tây và Sudan về phía tây bắc. Với hơn 109 triệu dân tính đến năm 2019, Ethiopia là quốc gia đông dân thứ 12 trên thế giới, quốc gia đông dân thứ hai trên lục địa châu Phi chỉ sau Nigeria và là quốc gia không giáp biển đông dân nhất trên thế giới. Quốc gia này có tổng diện tích 1.100.000 km vuông. Thủ đô và thành phố lớn nhất của nó là Addis Ababa, nằm cách Khe nứt Đông Phi vài cây số về phía tây, chia cắt đất nước thành các mảng kiến tạo châu Phi và Somali. Bản sắc dân tộc Ethiopia được đặt trong vai trò lịch sử và đương đại của Cơ đốc giáo và Hồi giáo, và sự độc lập của Ethiopia khỏi sự cai trị của ngoại bang bắt nguồn từ các vương quốc Ethiopia cổ xưa khác nhau.
Cộng hoà Dân chủ Liên bang Ethiopia
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Addis Ababa 9°1′B 38°45′Đ | ||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Amhara (cấp liên bang)[1] | ||||||||||
Ngôn ngữ địa phương |
| ||||||||||
Ngoại ngữ | |||||||||||
Tôn giáo chính | Kitô giáo (62.8%) Hồi giáo (33.9%) Tín ngưỡng truyền thống (2.6%) khác (0.7%)[6] | ||||||||||
Tên dân cư | Người Ethiopia | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Liên bang đảng chiếm ưu thế nghị viện cộng hòa | ||||||||||
Sahle-Work Zewde | |||||||||||
Abiy Ahmed Ali | |||||||||||
Demeke Mekonnen | |||||||||||
• Phát ngôn viên Hội đồng Đại diện Nhân dân Ethiopia | Tagesse Chafo | ||||||||||
• Chủ tịch Tòa án tối cao Liên bang | Meaza Ashenafi | ||||||||||
Lập pháp | Nghị viện Liên bang | ||||||||||
Thượng viện Liên bang | |||||||||||
• Hạ viện | Hội đồng Đại diện Nhân dân Ethiopia | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Hình thành | |||||||||||
• Dʿmt | c. 980 BCE | ||||||||||
c. 100 CE | |||||||||||
• Nhà Zagwe | 900 | ||||||||||
1137 | |||||||||||
• Thuộc địa của Ý | 1936 | ||||||||||
• Khôi phục chủ quyền | 1941 | ||||||||||
1974 | |||||||||||
1987 | |||||||||||
• Hiến pháp hiện hành | tháng 8 năm 1995 | ||||||||||
Địa lý | |||||||||||
Diện tích | |||||||||||
• Tổng cộng | 1,104,300[7] km2 (hạng 28) 426,371 mi2 | ||||||||||
• Mặt nước (%) | 0.7 | ||||||||||
Dân số | |||||||||||
• Ước lượng 2018 | 109,224,414 (hạng 12) | ||||||||||
• Điều tra 2007 | 73,750,932[8] | ||||||||||
• Mật độ | 92.7/km2 (hạng 123) 240,1/mi2 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
GDP (PPP) | Ước lượng 2019 | ||||||||||
• Tổng số | $240.705 tỷ[9] | ||||||||||
$2,516[9] | |||||||||||
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2019 | ||||||||||
• Tổng số | $90.968 tỷ[9] | ||||||||||
• Bình quân đầu người | $951[9] | ||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Birr (ብር) (ETB) | ||||||||||
Thông tin khác | |||||||||||
Gini? (2011) | 33,6[10] trung bình | ||||||||||
HDI? (2017) | 0,463[11] thấp · hạng 173 | ||||||||||
Múi giờ | UTC+3 (EAT) | ||||||||||
Giao thông bên | phải | ||||||||||
Mã điện thoại | +251 | ||||||||||
Mã ISO 3166 | ET | ||||||||||
Tên miền Internet | .et | ||||||||||
Trong hầu hết chiều dài lịch sử, Ethiopia theo chế độ quân chủ lập hiến và dấu vết về triều đại phong kiến ở Ethiopia bắt đầu từ thế kỷ II TCN.[12] Ethiopia cũng là một trong những địa điểm cổ nhất mà con người từng sinh sống.[13] Nơi đây có thể là khu vực mà những người Homo sapiens xây dựng nên Trung Đông đầu tiên và các điểm xung quanh đó.[14][15][16] Bên cạnh La Mã, Trung Quốc và Ba Tư, Vương quốc Aksum của Ethiopia được xem là một trong 4 quốc gia có sức mạnh lớn nhất thế giới vào thế kỷ III.[17][18][19] Trong suốt thời kỳ Tranh giành châu Phi, Ethiopia là quốc gia châu Phi duy nhất bên cạnh Liberia giữ vững được chủ quyền như là một quốc gia độc lập, và là một trong 4 thành viên châu Phi thuộc Hội Quốc Liên. Sau một giai đoạn ngắn bị người Ý chiếm đóng, Ethiopia trở thành thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc. Khi các quốc gia khác được trao trả độc lập sau thế chiến thứ 2, một số quốc gia đó sử dụng màu cờ của Ethiopia, và Addis Ababa trở thành nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế ở châu Phi.
Ethiopia là quốc gia có tiềm năng thủy điện lớn thứ 2 ở châu Phi,[20] với hơn 85% nguồn nước có từ các dòng của sông Nile, và có đất đai màu mỡ nhưng quốc gia này từng trải qua hàng loại các đợt đói trong thập niên 1980, và các đợt đói này càng trở nên trầm trọng hơn bởi ảnh hưởng của địa chính trị và các cuộc nội chiến, làm cho hàng trăm ngàn người chết.[21] Tuy nhiên, quốc gia này đã bắt đầu hồi phục một cách chậm chạp, và Ethiopia ngày nay là nền kinh tế lớn nhất Đông và Trung Phi tính theo GDP.[22][23][24] và là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Quốc gia này nắm nhiều quyền lực trong vùng sừng châu Phi và đông Phi.[25][26][27][28][29] Gần đây, vi phạm nhân quyền dưới ở Ethiopia thời thủ tướng Meles Zenawi đã được báo cáo, mặc dù quốc gia này có quyền lực chính trị, ngoại giao và kinh tế dẫn đầu ở châu Phi.[30][31][32]