Kinh tế Thái Lan
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kinh tế Thái Lan là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới phụ thuộc lớn vào du lịch và xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 60% GDP. Đây là nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực ASEAN (chỉ sau Indonesia), xếp hạng 25 toàn cầu theo GDP danh nghĩa[17], xếp thứ 21 thế giới xét theo sức mua tương đương[18], đứng thứ 28 trên thế giới về tổng giá trị thương hiệu quốc gia (thống kê năm 2020).[19]Mặc dù thị trường lớn, nhu cầu nội địa cao,phát triển nhanh. Tuy nhiên, nền kinh tế Thái Lan rất dễ bị tổn thương trước những tác động bên ngoài, ví dụ như đại dịch Covid-19[20]
Kinh tế Thái Lan | |
---|---|
Tiền tệ | Baht (THB) |
Năm tài chính | 1 tháng 10 – 30 tháng 9 |
Tổ chức kinh tế | WTO, APEC, IOR-ARC, ASEAN |
Số liệu thống kê | |
Dân số | 67.2 triệu (2014)[1] |
GDP | US$ 1.054 tỉ (PPP; 2015) US$ 390.592 tỉ (danh nghĩa; 2016)[2] |
Xếp hạng GDP | 28 (danh nghĩa) / 22 (PPP) (IMF, 2016) |
Tăng trưởng GDP | 0.3% (2015)[3] |
GDP đầu người | US$17,731 (PPP; 2016) US$ 5,771 (Danh nghĩa.)[2] |
GDP theo lĩnh vực | Nông nghiệp (8.4%), Công nghiệp (39.2%), Dịch vụ (52.4%) (2012)[4] |
Lạm phát (CPI) | 3.02% (2012)[5] 2.09% (Cốt lõi) (2012)[5] |
Tỷ lệ nghèo | 13.15% (2011)[6] |
Hệ số Gini | 0.484 (lợi nhuận) (2011)[6] 0.375 (chi) (2011)[6] |
Lực lượng lao động | 39.41 triệu (2012)[7] |
Thất nghiệp | 0.9% (2014)[8] |
Các ngành chính | Ô tô xe máy và linh kiện (11%), Dịch vụ tài chính (9%), Thiết bị điện và linh kiện (8%), Du lịch (6%), xi măng, máy tính và linh kiện, đồ gỗ nội thất, chất dẻo, dệt và may, chế biến nông sản, đồ uống, thuốc lá |
Xếp hạng thuận lợi kinh doanh | 18[9] |
Thương mại quốc tế | |
Xuất khẩu | US$229.1 tỉ (2013)[10] |
Mặt hàng XK | Dệt may, giày dép, thủy sản, gạo, cao su, đồ trang sức, ô tô, máy vi tính và thiết bị điện |
Đối tác XK | Trung Quốc 11.7% Nhật Bản 10.2% Hoa Kỳ 9.9% Hồng Kông 5.7% Malaysia 5.4% Indonesia 4.9% Singapore 4.7% Úc 4.3% (2012 est.)[11] |
Nhập khẩu | US$223 tỉ (2013)[10] |
Mặt hàng NK | Hàng hóa công nghiệp và hàng hóa trung gian, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, nhiên liệu |
Đối tác NK | Nhật Bản 20.0% Trung Quốc 14.9% UAE 6.3% Malaysia 5.3% Hoa Kỳ 5.3% (2012 est.)[12] |
FDI | US$150,517 triệu (2011)[13] |
Tổng nợ nước ngoài | US$134,180 triệu (JAN 2013)[14] |
Tài chính công | |
Nợ công | 43.3% của GDP (Q1/Năm tài chính 2013)[15] |
Thu | THB2,157.6 triệu (Năm tài chính 2013)[15] |
Chi | THB2,402.5 triệu (Năm tài chính 2013)[15] |
Viện trợ | Không |
Dự trữ ngoại hối | US$168.2 tỉ (18 tháng 7 năm 2014)[16] |
Theo các số liệu của UN, IMF và Ngân hàng Thế giới; tính cho đến hết năm 2019, GDP danh nghĩa của Thái Lan được ước tính vào khoảng 530 tỷ USD[21] hoặc 1,3 nghìn tỷ USD nếu xét theo GDP sức mua tương đương[22]. GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương đạt mức 21,361 nghìn USD/người[23] hoặc 7,800 nghìn USD/người theo danh nghĩa. Thái Lan là nền kinh tế lớn thứ 2 tại Đông Nam Á chỉ sau Indonesia, đứng thứ 8 châu Á và xếp hạng 22 trên thế giới theo danh nghĩa[24] hoặc thứ 7 châu Á và 20 toàn cầu nếu xét theo sức mua[25] - đây là vị trí mà quốc gia này đã nắm giữ và duy trì trong nhiều năm qua. Sự phục hồi của Thái Lan từ cơn khủng hoảng tài chính châu Á 1997-98 dựa trên xuất khẩu, phần lớn là do nhu cầu bên ngoài từ Hoa Kỳ và các thị trường nước ngoài khác.
Chính quyền của cựu Thủ tướng Thaksin - nhậm chức vào tháng 2 năm 2001 đã thực hiện mục tiêu kích cầu nội địa và giảm sự phụ thuộc của Thái Lan vào ngoại thương và đầu tư. Kể từ đó, chính quyền Thaksin đã tinh lọc thông điệp kinh tế của mình, đi theo chính sách kinh tế "đường đôi" kết hợp kích thích nội địa với xúc tiến các thị trường mở và đầu tư nước ngoài. Loạt chính sách này được biết đến với tên gọi phổ biến là "Học thuyết kinh tế học Thaksin" (Thaksinomics). Cầu về hàng xuất khẩu của Thái Lan yếu đã giữ tăng trưởng GDP năm 2001 còn 1,9%. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2002-03, sự kích thích nội địa và phục hồi xuất khẩu đã khiến cho nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn với tốc độ tăng GDP thực 5,3% (2002) và 6,3% (2003).
Người Thái gốc Hoa là thế lực nắm huyết mạch kinh tế của Thái Lan, họ là nhóm người thống trị và kiểm soát nền kinh tế Thái Lan[26]. Tại Thái Lan, người Thái gốc Hoa chỉ chiếm 14% dân số, nhưng nắm giữ tới gần 90% vốn của các doanh nghiệp và trên 50% vốn của ngành ngân hàng. Năm 2000, các ngân hàng và các công ty tài chính của người Thái gốc Hoa ở Thái Lan có tổng tài sản lên tới trên 22,2 tỷ USD, lớn hơn khối tài sản 21,8 tỷ USD của Chính phủ và Hoàng gia Thái Lan cộng lại. Chính vì vậy mà quyền lực và địa vị của người Thái gốc Hoa ở Thái Lan rất cao, nhiều người gốc Hoa từng làm thủ tướng Thái Lan như anh em Thủ tướng nhà Thaksin Shinawatra, cựu thủ tướng Abhisit Vejjajiva,... Người Thái gốc Hoa cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong chính phủ Thái Lan.[27]