Kính thiên văn Không gian James Webb
Kính viễn vọng không gian, dự định được phóng lên quỹ đạo vào năm 2021 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Kính thiên văn Không gian James Webb (JWST), trước đó gọi là Kính thiên văn không gian thế hệ tiếp theo (NGST), là một kính viễn vọng không gian đã được chế tạo và đã được phóng lên vào 19 giờ 20 phút (giờ Việt Nam) ngày 25 tháng 12 năm 2021. Kính JWST có độ nhạy và độ phân giải chưa từng có với khả năng thu thập từ bước sóng khả kiến cho tới hồng ngoại trung, và là thế hệ kính thiên văn kế tiếp của kính thiên văn không gian Hubble và kính thiên văn không gian Spitzer. Kính viễn vọng này có đặc điểm bao gồm một gương chính ghép mảnh đường kính 6,5 mét được tên lửa đưa tới điểm L2 của hệ Mặt Trời-Trái Đất. Các tấm chắn Mặt Trời lớn sẽ giữ cho gương và bốn thiết bị khoa học luôn ở dưới 50 K (−220 °C; −370 °F).
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ ngôn ngữ khác. (tháng 3/2022) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Kết xuất của Kính viễn vọng Không gian James Webb được triển khai đầy đủ. | |||||||||||
Tên | Kính thiên văn không gian James Webb | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Dạng nhiệm vụ | Thiên văn học | ||||||||||
Nhà đầu tư | NASA / ESA / CSA / STScI[1] | ||||||||||
Trang web | jwst sci stsci | ||||||||||
Thời gian nhiệm vụ | 5 năm (thiết kế) 10 năm (mục tiêu) | ||||||||||
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |||||||||||
Nhà sản xuất | Northrop Grumman Ball Aerospace | ||||||||||
Khối lượng phóng | 6.500 kg (14.300 lb)[2] | ||||||||||
Kích thước | 20,1 m × 7,21 m (65,9 ft × 23,7 ft) (tấm che Mặt Trời) | ||||||||||
Bắt đầu nhiệm vụ | |||||||||||
Ngày phóng | 25 tháng 12 năm 2021 [3] | ||||||||||
Tên lửa | Ariane 5 ECA | ||||||||||
Địa điểm phóng | Kourou ELA-3 | ||||||||||
Nhà thầu chính | Arianespace | ||||||||||
Các tham số quỹ đạo | |||||||||||
Hệ quy chiếu | điểm L2 Mặt Trời-Trái Đất | ||||||||||
Chế độ | Quỹ đạo quanh Mặt Trời | ||||||||||
Cận điểm | 374.000 km (232.000 mi)[4] | ||||||||||
Viễn điểm | 1.500.000 km (930.000 mi)[4] | ||||||||||
Chu kỳ | 6 tháng | ||||||||||
Kỷ nguyên | chưa thực hiện | ||||||||||
Gương chính chính | |||||||||||
Kiểu gương | kính viễn vọng Korsch | ||||||||||
Đường kính | 6,5 m (21 ft) | ||||||||||
Tiêu cự | 131,4 m (431 ft) | ||||||||||
Bước sóng | từ 0,6 µm (da cam) tới 28,5 µm (hồng ngoại trung) | ||||||||||
Diện tích thu nhận | 25 m2 (270 foot vuông) | ||||||||||
Bộ phát đáp | |||||||||||
Dải tần | băng S (hỗ trợ điều khiển) băng Ka (thu dữ liệu) | ||||||||||
Băng thông | Băng S tải lên: 16 kbit/s Băng S tải xuống: 40 kbit/s Băng Ka tải xuống: lên tới 28 Mbit/s | ||||||||||
Thiết bị | |||||||||||
| |||||||||||
Huy hiệu của nhiệm vụ James Webb Space Telescope |
Khả năng của JWST sẽ cho phép khảo cứu trên diện rộng đối với lĩnh vực thiên văn học và vũ trụ học.[5] Một mục tiêu quan trọng đó là quan sát những thiên thể ở xa nhất trong Vũ trụ, vượt phạm vi khả năng nghiên cứu của các thiết bị mặt đất và kính viễn vọng không gian hiện tại. Chúng bao gồm những ngôi sao đầu tiên, kỷ nguyên tái ion hóa, và sự hình thành của các thiên hà đầu tiên. Một mục tiêu khác đó là tìm hiểu sự hình thành sao và hành tinh. Để làm điều đó, JWST sẽ chụp ảnh các đám mây phân tử và các cụm mây hình thành sao, nghiên cứu các đĩa khí bụi bao quanh các sao trẻ, chụp ảnh trực tiếp các hành tinh, và ghi lại phổ của bầu khí quyển các hành tinh đi ngang qua ngôi sao mẹ.
Dự án khởi phát từ 1996,[6] là sự hợp tác phát triển giữa 17 quốc gia[7] dẫn đầu bởi NASA cùng với những đóng góp quan trọng từ cơ quan không gian châu Âu và cơ quan không gian Canada. Nó được đặt tên theo James E. Webb, nhà lãnh đạo thứ hai của NASA, người đóng vai trò tổng hợp đối với chương trình Apollo.[8]
Dự án JWST đã có nhiều lần bị trì hoãn và bị đội chi phí. Lúc đầu người ta ước lượng ngân sách cho dự án kính thiên văn này vào khoảng 1,6 tỷ $ và thời điểm phóng vào năm 2011. NASA đã nhiều lần điều chỉnh thời điểm phóng và hiện tại là vào năm 2021. Năm 2011, Hạ viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu chấm dứt tiếp tục ngân sách cho dự án sau khi khoảng 3 tỷ $ đã được chi tiêu và 75% thiết bị phần cứng của kính đã được chế tạo.[9] Tổng công trình tốn gần 10 tỷ đô vào thời điểm nó được hoàn thành.[10]