Lục quân Đức Quốc xã
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lục quân (tiếng Đức: Heer, tiếng Đức: [heːɐ̯] ⓘ) là thành phần lực lượng trên bộ của Wehrmacht, [lower-alpha 1] lực lượng vũ trang chính quy của Đức, từ năm 1935 cho đến khi bị tan rã vào năm 1945 và sau đó chính thức giải thể vào tháng 8 năm 1946.[2] Trong Thế chiến thứ hai, tổng cộng khoảng 13,6 triệu binh sĩ phục vụ trong Heer, bao gồm cả những người tình nguyện và lính nghĩa vụ.
Lục quân Đức Quốc xã | |
---|---|
Heer | |
Đề can trên nón sắt của Heer | |
Hoạt động | 1935–1945 |
Giải tán | 1946 |
Quốc gia | Đức |
Phục vụ | Adolf Hitler |
Phân loại | Lục quân |
Quy mô | Tổng: 13,600,000[1] |
Bộ phận của | Wehrmacht |
Tổng hành dinh | Maybach I, Wünsdorf |
Tham chiến | Nội chiến Tây Ban Nha Thế chiến thứ hai |
Các tư lệnh | |
Tổng tư lệnh tối cao | Adolf Hitler |
Tổng tư lệnh Lục quân | xem Oberkommando des Heeres |
Tổng tham mưu trưởng Lục quân | xem Oberkommando des Heeres |
Huy hiệu | |
Ranks and insignia | Ranks and insignia of the Army |
Unit flag |
Chỉ 17 tháng sau khi Adolf Hitler công bố chương trình tái vũ trang của Đức vào năm 1935, Heer đã đạt được mục tiêu dự kiến là 36 sư đoàn. Trong mùa thu năm 1937, hai quân đoàn nữa được thành lập. Năm 1938, bốn quân đoàn bổ sung được thành lập với sự bao gồm của năm sư đoàn của Quân đội Áo sau trận Anschluss vào tháng Ba.[3] Trong thời kỳ bành trướng dưới thời Hitler, Heer tiếp tục phát triển các khái niệm đi tiên phong trong Thế chiến thứ nhất, kết hợp các khí tài trên bộ và trên không thành các binh đoàn hợp thành. Cùng với các phương pháp tác chiến và chiến thuật như bao vây và "tiêu diệt", quân đội Đức đã giành được chiến thắng nhanh chóng trong hai năm đầu của Thế chiến thứ hai, một kiểu chiến tranh mới được mô tả là Blitzkrieg (chiến tranh chớp nhoáng ) vì tốc độ và sức mạnh hủy diệt của nó.[4]
Quân đội Đức đã tham gia một cuộc chiến tiêu diệt ở Mặt trận phía Đông và chịu trách nhiệm cho nhiều tội ác chiến tranh cùng với Waffen-SS và Allgemeine SS.