Người Mường
nhóm dân tộc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Người Mường, còn có tên gọi là Mol, Moan, Mual, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.[2][3]
Người Mường | |
---|---|
Cờ khu tự trị Mường được sử dụng từ năm 1947 đến năm 1954. | |
Tổng dân số | |
1.452.095 (2019[1]) | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Hòa Bình: 549.026 Thanh Hóa: 376.340 Phú Thọ: 218.404 Sơn La: 84.676 Hà Nội: 62.239 | |
Ngôn ngữ | |
Tiếng Mường, Tiếng Việt | |
Tôn giáo | |
Vật linh, Phật giáo | |
Sắc tộc có liên quan | |
Người Việt, người Môn-Khmer khác. |
Người Mường nói tiếng Mường, ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường trong ngữ chi Việt thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Dân số người Mường tại Việt Nam theo kết quả điều tra dân số năm 2019 là 1.452.095 người, tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình chiếm 37,81% và các tỉnh lân cận là Thanh Hóa 25,92%, Phú Thọ 15,04%, Sơn La 5,83%, Hà Nội 4,29%. Các vùng còn lại chiếm 11,11%.[4]
Người Mường có quan hệ rất gần với người Kinh, có cùng nguồn gốc với người Kinh. Các nhà dân tộc học ngôn ngữ đưa ra thuyết cho rằng người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt-Mường cổ. Vào thời kỳ ngàn năm bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi, bảo tồn bản sắc cổ Âu Lạc, và sau này trở thành người Mường. Bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn với người phương bắc về văn hóa, ngôn ngữ và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình chia tách Mường - Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra bắt đầu từ thế kỷ 7-8 và kết thúc vào thế kỷ 12, thời Nhà Lý.[5]