Nạn đói Bắc Triều Tiên
From Wikipedia, the free encyclopedia
Nạn đói tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Nạn đói tại Bắc Triều Tiên (tiếng Triều Tiên: 조선기근) hay còn được gọi là Hành quân gian khổ, Hành quân khổ nạn (고난의 행군) theo mô tả của chính quyền Bình Nhưỡng; là một nạn đói xảy ra ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vào đầu thập niên 1990, đi kèm với cuộc khủng hoảng kinh tế chung ở quốc gia này từ năm 1994 đến 1998[5]. Nạn đói bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau. Quản lý kinh tế sai lầm và mất sự hỗ trợ của đồng minh Liên Xô khiến sản xuất và nhập khẩu lương thực giảm nhanh chóng. Một loạt các trận lũ lụt và hạn hán làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng. Chính phủ Triều Tiên và hệ thống kế hoạch tập trung đã tỏ ra quá cứng nhắc trong việc ngăn chặn thảm họa.
Hành quân khổ nạn
고난의 행군 | |
---|---|
Quốc gia | Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên |
Địa điểm | Toàn quốc |
Thời kỳ | 1994-1998 |
Tổng số người chết | 0,24 đến 3,5 triệu |
Các quan sát | Quản lý kinh tế kém,[1][2] thiên tai[3] |
Cứu trợ | Viện trợ lương thực và nhân đạo (1994[4] – đến nay) |
Hậu quả | Chuyển đổi chính trị từ chủ nghĩa Mác - Lê Nin sang Songun |
Nạn đói Bắc Triều Tiên | |
Hangul | 고난의 행군 |
---|---|
Hanja | 苦難의 行軍 |
Romaja quốc ngữ | gonanui haenggun |
McCune–Reischauer | konanŭi haenggun |
Hán-Việt | Khổ nạn hành quân |
Ước tính nạn đói ở CHDCND Triều Tiên đã làm chết khoảng 240.000 tới 3.500.000 người (dân số CHDCND Triều Tiên khoảng 22 triệu người) trong thập niên 1990 với đỉnh cao là năm 1997 [6][7]. Một báo cáo của Cục điều tra dân số do Hoa Kỳ thực hiện vào năm 2011, ước tính số người chết quá mức từ năm 1993 đến năm 2000 là từ 500.000 đến 600.000 người. Tới năm 1999, lương thực và cứu trợ nhân đạo đã chấm dứt nạn đói, nhưng việc CHDCND Triều Tiên tiếp tục chương trình vũ khí hạt nhân dẫn tới giảm sút viện trợ quốc tế. Kể từ năm 2000, nạn đói quy mô lớn đã không còn xảy ra, nhưng do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, việc sản xuất đủ lương thực cho đất nước vẫn là một vấn đề khó khăn đối với Triều Tiên.