Kỷ Permi
From Wikipedia, the free encyclopedia
Kỷ Permi (Nhị Điệp) là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 298,9 ± 0,15 triệu năm trước (Ma) tới 252,17 ± 0,06 Ma[5]. Nó là kỷ cuối cùng của đại Cổ Sinh. Cũng giống như các kỷ địa chất khác, các địa tầng xác định kỷ Permi được xác định rất rõ ràng, nhưng niên đại chính xác của sự bắt đầu của kỷ là không chắc chắn với sai số vài triệu năm. Kỷ Permi diễn ra sau kỷ Than Đá (thế Pennsylvania tại Bắc Mỹ) và ngay sau nó là kỷ Trias thuộc đại Trung Sinh. Sự kết thúc của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn, gọi là sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, đã được xác định niên đại chính xác hơn. Kỷ Permi được Roderick Murchison-một nhà địa chất học người Anh đặt tên trong thập niên 1840, theo khu vực được khai quật rộng khắp xung quanh thành phố Permi ở Nga. Các lớp khai quật tại Permi bao gồm một lượng lớn đá trầm tích lục địa màu đỏ và các lớp khai quật thuộc phần nước đại dương. Trong kỷ này xuất hiện phổ biến các loài bò sát tương tự như động vật có vú.
- Permi cũng là tên gọi khác cho phân nhóm ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Permi
Kỷ Permi 298.9–251.902 triệu năm trước đây | |
Nồng độ O 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 23 Vol %[1] (115 % so với giá trị hiện tại) |
Nồng độ CO 2 trung bình trong khí quyển giai đoạn này |
Khoảng 900 ppm[2] (3 lần giá trị tiền công nghiệp) |
Nhiệt độ bề mặt nước biển trong giai đoạn này | Khoảng 16 °C[3] (2 °C trên mức hiện đại) |
Mực nước biển (cao hơn ngày nay) | Ổn định ở mức 60 m (200 ft) cao hơn ngày nay vào đầu kỷ; sụt giảm mạnh vào giữa kỷ, và thấp hơn ngày nay −20 m (−66 ft) vào cuối kỷ.[4] |