Rifampicin
From Wikipedia, the free encyclopedia
Rifampicin, còn được gọi là rifampin, là một kháng sinh được sử dụng để điều trị một số loại nhiễm khuẩn, có thể kể đến như bệnh lao, phức hợp mycobacterium avium, bệnh phong và bệnh Legionnaire.[2] Thuốc này gần như luôn luôn được sử dụng cùng với các thuốc kháng sinh khác, trừ khi được kê để ngăn ngừa bệnh Haemophilus influenzae loại b và bệnh viêm màng não cầu khuẩn ở những người đã phơi nhiễm với những vi khuẩn này.[2] Trước khi điều trị cho một người trong một thời gian dài, nên đo các chỉ số về men gan và số lượng máu.[2] Rifampicin có thể được đưa vào cơ thể qua đường miệng hoặc tiêm tĩnh mạch.[2]
Dữ liệu lâm sàng | |
---|---|
Phát âm | /rɪˈfæmpəsɪn/ |
Tên thương mại | Rifadin, tên khác |
Đồng nghĩa | Rifampin (USAN US) |
AHFS/Drugs.com | Chuyên khảo |
MedlinePlus | a682403 |
Giấy phép | |
Danh mục cho thai kỳ |
|
Dược đồ sử dụng | qua đường miệng, tiêm tĩnh mạch |
Mã ATC | |
Tình trạng pháp lý | |
Tình trạng pháp lý | |
Dữ liệu dược động học | |
Sinh khả dụng | 90 tới 95% (qua đường miệng) |
Liên kết protein huyết tương | 80% |
Chuyển hóa dược phẩm | Gan và thành ruột |
Chu kỳ bán rã sinh học | 3–4 giờ |
Bài tiết | nước tiểu (~30%), phân (60–65%) |
Các định danh | |
Tên IUPAC
| |
Số đăng ký CAS | |
PubChem CID | |
IUPHAR/BPS | |
DrugBank |
|
ChemSpider |
|
Định danh thành phần duy nhất | |
KEGG |
|
ChEBI | |
ChEMBL | |
NIAID ChemDB | |
Phối tử ngân hàng dữ liệu protein | |
ECHA InfoCard | 100.032.997 |
Dữ liệu hóa lý | |
Công thức hóa học | C43H58N4O12 |
Khối lượng phân tử | 822.94 g/mol |
Mẫu 3D (Jmol) | |
Điểm nóng chảy | 183 đến 188 °C (361 đến 370 °F) |
Điểm sôi | 937 °C (1.719 °F) [1] |
SMILES
| |
Định danh hóa học quốc tế
| |
NY (what is this?) (kiểm chứng) |
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và chán ăn.[2] Rifampicin cũng thường biến nước tiểu, mồ hôi và nước mắt thành màu đỏ hoặc cam.[2] Vấn đề về gan hoặc phản ứng dị ứng cũng có thể xảy ra.[2] Đây là một phần trong phương pháp điều trị lao được khuyến cáo trong khi đang mang thai, dù mức độ an toàn trong thai kỳ vẫn chưa rõ ràng.[2] Rifampicin thuộc nhóm kháng sinh rifamycin.[2] Chúng hoạt động bằng cách ngăn chặn việc tổng hợp RNA của vi khuẩn.[2]
Rifampicin được phát hiện vào năm 1965, được bán tại Ý vào năm 1968 và được chấp thuận tại Hoa Kỳ vào năm 1971..[3][4][5] Nó nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế.[6] Chúng có sẵn dưới dạng thuốc gốc.[2] Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là khoảng 3,90 USD một tháng.[7] Tại Hoa Kỳ một tháng điều trị có giá khoảng 120 USD.[2][8] Rifampicin được tạo ra bởi vi khuẩn trong đất là Amycolatopsis rifamycinica.[5]