![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0c/Mars_-_August_30_2021_-_Flickr_-_Kevin_M._Gill.png/640px-Mars_-_August_30_2021_-_Flickr_-_Kevin_M._Gill.png&w=640&q=50)
Sao Hỏa
hành tinh thứ tư tính từ Mặt Trời trong Thái Dương Hệ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Sao Hỏa (tiếng Anh: Mars) hay Hỏa Tinh (chữ Hán: 火星) là hành tinh thứ tư ở Hệ Mặt Trời và là hành tinh đất đá ở xa Mặt Trời nhất, với bán kính bé thứ hai so với các hành tinh khác. Sao Hoả có màu cam đỏ do bề mặt của hành tinh được bao phủ bởi lớp vụn sắt(III) oxit, do đó còn có tên gọi khác là "hành tinh đỏ".[16][17] Vì bán cầu Bắc của Sao Hoả có bồn trũng Bắc Cực chiếm đến 40% diện tích hành tinh, so bán cầu Nam thì bán cầu Bắc phẳng hơn và ít hố va chạm hơn. Khí quyển của Sao Hoả khá mỏng với thành phần chính là cacbon dioxit. Ở hai cực Sao Hoả là lớp băng được làm bằng nước. Sao Hoả có hai vệ tinh tự nhiên: Phobos và Deimos.
![]() Ảnh màu thật của Sao Hỏa được chụp bởi Nhiệm vụ Sao Hỏa vào ngày 30 tháng 8 năm 2021 | |||||||||||||||||
Đặc trưng quỹ đạo[1] | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Kỷ nguyên J2000 | |||||||||||||||||
Điểm viễn nhật | 249200000 km (1,666 AU) | ||||||||||||||||
Điểm cận nhật | 206700000 km (1,382 AU) | ||||||||||||||||
227939200 km (1,523679 AU) | |||||||||||||||||
Độ lệch tâm | 0,0934 | ||||||||||||||||
686,980 ngày (1,880 85 năm; 668,5991 sols)[2] | |||||||||||||||||
779,96 ngày (2,1354 năm) | |||||||||||||||||
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 24,007 km/s (86430 km/h; 53700 mph) | ||||||||||||||||
19,412°[2] | |||||||||||||||||
Độ nghiêng quỹ đạo |
| ||||||||||||||||
49,558° | |||||||||||||||||
21 tháng 6 năm 2022[4] | |||||||||||||||||
286,502° | |||||||||||||||||
Vệ tinh | 2 (Phobos và Deimos) | ||||||||||||||||
Đặc trưng vật lý | |||||||||||||||||
Bán kính trung bình | 3389,5 ± 0,2 km[lower-alpha 1][5] | ||||||||||||||||
Bán kính xích đạo | 3396,2 ± 0,1 km[lower-alpha 1][5] (0,533 lần Trái Đất) | ||||||||||||||||
Bán kính cực | 3376,2 ± 0,1 km[lower-alpha 1][5] (0,531 lần Trái Đất) | ||||||||||||||||
Độ dẹt | 0,00589±0,00015 | ||||||||||||||||
144,37×106 km2[6] (0,284 lần Trái Đất) | |||||||||||||||||
Thể tích | 1,63118×1011 km3[7] (0,151 lần Trái Đất) | ||||||||||||||||
Khối lượng | 6,4171×1023 kg[8] (0,107 lần Trái Đất) | ||||||||||||||||
Mật độ trung bình | 3,9335 g/cm3[7] | ||||||||||||||||
3,72076 m/s2[9] (12,2072 ft/s2; 0,3794 g) | |||||||||||||||||
Hệ số mô men quán tính | 0,3644±0,0005[8] | ||||||||||||||||
5,027 km/s (18100 km/h; 11250 mph) | |||||||||||||||||
1,02749125 ngày[10] 24h 39m 36s | |||||||||||||||||
1,025957 ngày 24h 37m 22,7s[7] | |||||||||||||||||
Vận tốc quay tại xích đạo | 241,17 m/s (868,22 km/h; 539,49 mph) | ||||||||||||||||
25,19° so với mặt phẳng quỹ đạo[2] | |||||||||||||||||
Xích kinh cực Bắc | 317,68143° 21h 10m 44s | ||||||||||||||||
Xích vĩ cực Bắc | 52,88650° | ||||||||||||||||
Suất phản chiếu | |||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
−2,94 đến +1,86[14] | |||||||||||||||||
3,5–25,1″[2] | |||||||||||||||||
Khí quyển[2][15] | |||||||||||||||||
Áp suất bề mặt | 0,636 (0,4–0,87) kPa 0,00628 atm | ||||||||||||||||
Thành phần khí quyển |
| ||||||||||||||||
Một ngày ở trên Sao Hoả dài khoảng 24,5 tiếng và Sao Hoả có các mùa giống như ở trên Trái Đất, vì hành tinh này có trục quay nghiêng 25°. Thời gian để Sao Hoả quay một vòng quanh Mặt Trời là 1,88 năm Trái Đất. Nhiệt độ trên bề mặt Sao Hoả biến thiên khá nhiều, thường rơi khoảng từ −110 °C đến 35 °C. Vỏ ngoài của Sao Hoả có nhiều nguyên tố silicon, oxy (trong dạng oxit) và sắt, lớp phủ ở bên trong vỏ chứa silicat rắn, còn lớp lõi ở bên trong cùng chứa nhiều nguyên tố sắt, niken và lưu huỳnh. Sao Hoả hiện tại có nhiều biến động về địa chất, với những cơn lốc xoáy làm bay bụi và các trận động đất xảy ra thường xuyên. Trên Sao Hoả có Olympus Mons là đỉnh núi cao nhất và hẻm núi Valles Marineris thuộc dạng dài nhất trong Hệ Mặt Trời.
Sao Hoả được hình thành 4,5 tỷ năm trước. Ở Kỷ Noachian từ khoảng 4,1 đến 3,7 tỷ năm trước, trên bề mặt hành tinh bị phong hoá rất mạnh và thiên thạch đâm rất nhiều, hình thành nên các dãy núi lửa, thung lũng, vùng trũng và biển. Kỷ Hesperian từ 3,7 đến khoảng 3,2–2 tỷ năm trước được đánh dấu bởi các vụ phun trào núi lửa và lũ lụt mạnh, tạo ra những bãi hạ nguồn ngoằn nghèo trên bề mặt. Kỷ Amazonian từ đó đến nay thì so với các kỷ trước thì ít hoạt động địa chất hơn. Dù có nhiều bằng chứng cho thấy nước ở dạng lỏng đã từng tồn tại khá lâu ở trên Sao Hoả, chưa có bằng chứng cụ thể nào cho thấy sự sống đã từng tồn tại trên Sao Hỏa.
Sao Hoả là một trong những vật sáng nhất trên bầu trời, khi nhìn vào thì có màu đỏ rất đặc trưng. Vì vậy, người Hoa và Việt Nam đã đặt tên hành tinh này từ nguyên tố hoả (lửa) trong Ngũ hành. Trong nhiều thứ tiếng ở châu Âu thì Sao Hoả được đặt tên từ vị thần chiến tranh Hi Lạp Mars. Từ cuối thế kỷ 20, các tàu thám hiểm Sao Hoả như là Mariner 4 (tàu đầu tiên bay qua Sao Hoả năm 1965), Mars 2 (vệ tinh nhân tạo Sao Hoả đầu tiên, năm 1971), và Viking 1 (đáp lần đầu trên Sao Hoả năm 1976) đã tăng sự hiểu biết của loài người về hành tinh này. Hiện tại, năm 2023 có ít nhất 11 tàu còn đang hoạt động trên Sao Hoả đến từ nhiều nước khác nhau. Do nhiều yếu tố, Sao Hoả khả năng cao sẽ là hành tinh thứ hai mà con người đáp xuống và khám phá.