Thiên hoàng Minh Trị
Thiên Hoàng Nhật Bản thứ 122 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Minh Trị Thiên hoàng (明治天皇, Meiji-tennō?, (1852-11-03)3 tháng 11, 1852 - (1912-07-30)30 tháng 7, 1912) hay còn gọi là Nhật Minh là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được coi là một vị minh quân có công lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, đã canh tân và đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của các nước đế quốc phương Tây giữa lúc chủ nghĩa thực dân đang phát triển mạnh.
Thiên hoàng Minh Trị 天皇明治 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thiên hoàng Nhật Bản | |||||||||
Hình Thiên hoàng Minh Trị (ảnh màu) trong sách Tenno Yondai No Shozo (天皇四代の肖像, Thiên hoàng Tứ đại chi Tiêu tượng), xuất bản bởi Nhà xuất bản Mainichi (Mainichi Shinbun Sha, 毎日新聞社, Mỗi Nhật Tân văn xã). | |||||||||
Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản | |||||||||
Trị vì | 13 tháng 2 năm 1867 – 30 tháng 7 năm 1912 (45 năm, 168 ngày) | ||||||||
Lễ đăng quang và Lễ tạ ơn | 12 tháng 10 năm 1868 (ngày lễ đăng quang) 28 tháng 12 năm 1871 (ngày lễ tạ ơn) | ||||||||
Chinh di Đại Tướng quân | Tokugawa Yoshinobu | ||||||||
Tiền nhiệm | Thiên hoàng Hiếu Minh | ||||||||
Kế nhiệm | Thiên hoàng Đại Chính | ||||||||
Nội các Tổng lý Đại thần | Itō Hirobumi Kiyotaka Kuroda Sanjō Sanetomi Yamagata Aritomo Matsukata Masayoshi Ōkuma Shigenobu Katsura Tarō Saionji Kinmochi | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | (1852-11-03)3 tháng 11 năm 1852 Vườn quốc gia Kyoto Gyoen, Kyoto, Nhật Bản | ||||||||
Mất | 30 tháng 7 năm 1912(1912-07-30) (59 tuổi) Cung điện Minh Trị, Tokyo, Nhật Bản | ||||||||
An táng | 13 tháng 9 năm 1912 Fushimi Momoyama no Misasagi (伏見桃山陵 (Phục Kiến Đào San Lăng), Fushimi Momoyama no Misasagi?), Kyōto, Nhật Bản | ||||||||
Hoàng hậu |
| ||||||||
Hoàng phi |
| ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Hoàng tộc | Hoàng gia Nhật Bản | ||||||||
Hoàng gia ca | Kimi ga Yo | ||||||||
Thân phụ | Thiên hoàng Hiếu Minh | ||||||||
Thân mẫu | Nakayama Yoshiko | ||||||||
Tôn giáo | Thần đạo | ||||||||
Chữ ký |
Tên húy Minh Trị là Mutsuhito (睦仁 (Mục Nhân), Mutsuhito?). Cũng như các vua trước, ông chỉ được gọi bằng thụy hiệu sau khi chết, dù đôi khi ông được gọi là Nhật hoàng Mutsuhito hoặc đơn giản là Mutsuhito ở ngoài nước Nhật Bản. Ở Nhật Bản, ngoài trường hợp là người thân trong Hoàng gia, ai nói tên thật của Thiên hoàng sẽ bị xem là phạm húy. Khi Thiên hoàng qua đời, người kế vị của ông sẽ đặt niên hiệu mới cho mình. Vốn là vị Thiên hoàng trong thời kỳ Minh Trị, ông được biết với tên gọi Minh Trị Thiên hoàng.
Minh Trị lên ngôi trong bối cảnh Nhật Bản đang có sự thay đổi đầy biến động. Giữa thế kỷ XIX, chuyến thăm của Phó đề đốc Hoa Kỳ Matthew Calbraith Perry đã chấm dứt chính sách bế quan tỏa cảng của Mạc phủ Tokugawa. Sau một loạt hiệp ước bất bình đẳng với phương Tây, Nhật Bản đứng trước khủng hoảng dân tộc và chế độ Mạc phủ phải đối mặt với sự thù địch trong nước. Năm 1867, Mutsuhito lên kế vị vua cha khi mới 15 tuổi. Được sự hỗ trợ của các lãnh chúa (daimyō) và giai cấp tư sản, Minh Trị ép Shōgun Tokugawa Keiki phải nhượng lại quyền bính cho hoàng gia. Tuy nhiên, Keiki lại tập hợp phe cánh dấy binh chống Thiên hoàng. Quân các lãnh chúa phiên Satsuma hay Chōshū đã đánh bại được Mạc phủ. Có điều, trong suốt thời gian chiến tranh, Minh Trị không có khả năng cầm quyền, chỉ là vua bù nhìn của phe chống Mạc phủ.[1] Sau chiến thắng, các công thần của cuộc chiến nắm giữ thực quyền, thực hiện cải cách theo xu hướng tư bản chủ nghĩa. Sự chuyển biến về tính cách của Minh Trị trong thời gian đó đã đặt nền tảng cho quá trình đích thân chấp chính sau nhiều biến động trong các năm 1877 - 1878.
Minh Trị đã thực hiện cuộc Minh Trị duy tân theo xu hướng tư bản chủ nghĩa, dời đô từ Kyōto về Tōkyō, bóp chết phong trào Tự do Dân quyền và ban hành bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản (1889), Nhật Bản trở thành nước theo thể chế quân chủ lập hiến. Dù là cuộc cách mạng tư sản không triệt để, Minh Trị Duy Tân đã tạo điều kiện cho nước Nhật phát triển theo đường lối tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa, rồi còn bành trướng ra nước ngoài. Với chiến thắng trước Trung Quốc thời Mãn Thanh trong Chiến tranh Thanh-Nhật, và đế quốc Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản vươn lên đứng hàng ngũ các cường quốc trên thế giới. Ngoài ra, giáo dục cũng là một lĩnh vực mà Thiên hoàng Minh Trị quan tâm đến.[2]
Mặc dù không phải tất cả những sự kiện trên đều do một mình Thiên hoàng Minh Trị làm ra, nhưng tất cả được thực hiện dưới "Thánh chỉ của Thiên hoàng" và dĩ nhiên ông có nhiều đóng góp, dính líu đến trong đó. Vì vậy, Thiên hoàng Minh Trị được nhiều người chú ý nhất trong số các Thiên hoàng Nhật Bản và được xem là người đặt nền móng cho sự "thần kỳ của Nhật Bản".[2] Những nhà lãnh đạo trong triều đình Minh Trị cũng cố gắng đưa Thiên hoàng trở thành biểu tượng của sự thống nhất và lòng trung thành của dân tộc Nhật Bản, dựa trên niềm tin Hoàng gia thiêng liêng, là con cháu của Thiên Chiếu Ngự Đại Thần Amaterasu-ōmikami.[3] Có người tôn vinh ông, nhưng bên cạnh đó cũng có người chỉ trích ông - một "đinh chốt của chủ nghĩa tư bản" (theo Kōtoku Shūsui) - một cách thẳng tay.[4] Trong những năm đầu triều đại ông, pháp nạn Phật giáo xảy ra ở Nhật Bản.[5] Về cuối đời, nhà vua đã thoát khỏi một âm mưu ám sát do Kōtoku Shūsui thực hiện (1910).[6]