Thiết quân luật
sự thay thế chính quyền dân sự bằng quyền cai trị của quân đội, đình chỉ các quy trình pháp lí dân sự / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thiết quân luật là sự áp đặt kiểm soát quân sự trực tiếp đối với các chức năng dân sự thông thường hoặc đình chỉ luật dân sự của chính phủ, đặc biệt là để đối phó với tình trạng khẩn cấp tạm thời khi lực lượng dân sự bị áp đảo, hoặc trong một lãnh thổ bị chiếm đóng.[1][2]
Thiết quân luật có thể được các chính phủ sử dụng để thực thi sự cai trị của họ đối với công chúng, như được thấy ở nhiều quốc gia được liệt kê dưới đây. Những sự cố như vậy có thể xảy ra sau một cuộc đảo chính (Thái Lan năm 2006 và 2014, và Ai Cập năm 2013); khi bị đe dọa bởi cuộc biểu tình phổ biến (Trung Quốc, cuộc biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989); đàn áp phe đối lập chính trị (thiết quân luật ở Ba Lan năm 1981); hoặc để ổn định cuộc nổi dậy hoặc cuộc nổi dậy nhận thức (Canada, cuộc khủng hoảng tháng 10 năm 1970). Thiết quân luật có thể được tuyên bố trong các trường hợp thiên tai lớn; tuy nhiên, hầu hết các quốc gia sử dụng một cấu trúc pháp lý khác nhau, chẳng hạn như tình trạng khẩn cấp.
Thiết quân luật cũng đã được áp đặt trong các cuộc xung đột, và trong các trường hợp nghề nghiệp, trong đó sự vắng mặt của bất kỳ chính phủ dân sự nào khác khiến cho dân số không ổn định. Ví dụ về hình thức cai trị quân sự này bao gồm tái thiết sau Thế chiến II ở Đức và Nhật Bản, sự phục hồi và tái thiết của Liên bang Hoa Kỳ trước đây trong Thời kỳ Tái thiết ở Hoa Kỳ sau Nội chiến Hoa Kỳ và Đức chiếm đóng miền Bắc nước Pháp giữa năm 1871 và 1873 sau khi Hiệp ước Frankfurt kết thúc Chiến tranh Pháp-Phổ.
Thông thường, việc áp dụng thiết quân luật đi kèm với giới nghiêm; sự đình chỉ của luật dân sự, quyền công dân và văn phòng dân sự; và việc áp dụng hoặc mở rộng luật quân sự hoặc công lý quân sự cho dân thường. Thường dân bất chấp thiết quân luật có thể phải chịu tòa án quân sự.