Thuyết X-bar
lý thuyết cú pháp học / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trong ngôn ngữ học, thuyết X-bar (tiếng Anh: X-bar theory; còn được dịch là lý thuyết thanh chắn – X,[1] lý thuyết X-gạch ngang,[2] hay lý thuyết biến thể phạm trù[3]) là một mô hình ngữ pháp cấu trúc-ngữ đoạn (phrase-struture grammar) và là một lý thuyết tổ hợp phạm trù cú pháp (syntactic category formation)[4] được đề xướng bởi nhà ngôn ngữ học Noam Chomsky vào năm 1970,[5] rồi được phát triển bổ sung bởi Ray Jackendoff (1974,[6] 1977a,[7] 1977b[8]) dựa trên nền tảng thuyết ngữ pháp tạo sinh do Chomsky xây dựng vào những năm 1950.[9][10] Thuyết này được sinh ra với mục đích biểu diễn cấu trúc các phạm trù ngữ đoạn bằng một cấu trúc duy nhất gọi là giản đồ X-bar, dựa trên giả định cho rằng mọi ngữ đoạn trong các ngôn ngữ tự nhiên là một XP (ngữ đoạn X) đứng sau một phạm trù cú pháp X đã được cho trước. Thuyết X-bar đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của luật cấu trúc ngữ đoạn, đơn cử là sự gia tăng các luật ngữ pháp, điều mà mâu thuẫn với thuyết ngữ pháp tạo sinh.