Thặng dư kinh tế
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trong kinh tế học chính thống, thặng dư kinh tế (tiếng Anh: Economic surplus), còn được gọi là tổng phúc lợi hoặc tổng phúc lợi xã hội hoặc thặng dư Marshall (đặt theo tên của Alfred Marshall), là một trong hai đại lượng có liên quan:
- Thặng dư của người tiêu dùng hay thặng dư tiêu dùng (consumer surplus; CS), là lợi nhuận bằng tiền mà người tiêu dùng thu được do họ có thể mua một sản phẩm với giá thấp hơn giá cao nhất mà họ sẵn lòng trả.
- Thặng dư của người sản xuất hay thặng dư sản xuất (producer surplus; PS), là số tiền mà người sản xuất được lợi khi bán với giá thị trường cao hơn mức giá thấp nhất mà họ sẵn lòng bán; con số này gần bằng với lợi nhuận (vì các nhà sản xuất thường không sẵn sàng bán lỗ và thường không quan tâm đến việc bán với giá hòa vốn).[1][2]
Bài viết này trong loại bài Kinh tế học |
Đề cương các chủ đề |
---|
Phân loại tổng quát |
Kinh tế học vi mô · Kinh tế học vĩ mô |
Các phương pháp kỹ thuật |
Toán học ·
Kinh tế lượng
|
Lĩnh vực và tiểu lĩnh vực |
Hành vi · Văn hóa · Tiến hóa |
Danh sách |
Tạp chí · Ấn bản |
Các tư tưởng kinh tế Vô chính phủ · Tư bản |
Ăng-lô - Xắc-xông · Phong kiến |
Chủ đề Kinh tế học |