Trận Iwo Jima
Trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến 2 giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật Bản / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Iwo Jima (tiếng Anh: Battle of Iwo Jima, tiếng Nhật: 硫黄島の戦い, 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật Bản tại đảo Iwo Jima. Đây là một trong những trận đánh ác liệt nhất của chiến trường Thái Bình Dương và kết quả sau một tháng giao tranh, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm được Iwo Jima với thương vong khủng khiếp của cả hai bên tham chiến. Sau khi chiếm được hòn đảo, quân Mĩ đã biến nó thành một căn cứ không quân cho những chiếc khu trục cơ yểm trợ máy bay ném bom hạng nặng B-29 trút bom xuống các trung tâm công nghiệp trọng điểm trên lãnh thổ Nhật Bản và làm bàn đạp tấn công Tokyo.
Trận Iwo Jima | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai | |||||||
Bức ảnh nổi tiếng "Raising the Flag on Iwo Jima" của nhiếp ảnh gia Joe Rosenthal miêu tả cảnh Thủy quân lục chiến Mỹ cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Suribachi vào ngày 23 tháng 2 năm 1945. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Hoa Kỳ | Nhật Bản | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Hải quân Hoa Kỳ: Chester W. Nimitz Raymond A. Spruance Marc A. Mitscher William H.P. Blandy Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ: Holland M. Smith Harry Schmidt Graves B. Erskine Clifton B. Cates Keller E. Rockey |
Kuribayashi Tadamichi † Nishi Takeichi † | ||||||
Thành phần tham chiến | |||||||
Đơn vị mặt đất:
Không lực số 7 Hải quân:
|
Đơn vị mặt đất:
Hải quân:
Không quân: 32 máy bay (gồm 20 chiếc cảm tử Kamikaze)[1] | ||||||
Lực lượng | |||||||
110.000 quân nhân Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Quân đội Hoa Kỳ, Y tá quân y Hải quân Hoa Kỳ, USAAF và những người khác 500+ tàu chiến Vài trăm máy bay |
20.530–21.060 binh sĩ[2] 23 xe tăng[3] 438 đại bác 33 đại bác hải quân 69 pháo chống tăng ~300 pháo phòng không[4] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
6.821 người chết[5] 19.217 người bị thương 218 mất tích 168 máy bay[6] 137 xe tăng 1 tàu sân bay hộ tống, 1 tàu đổ bộ bị đánh chìm 1 tàu sân bay cỡ lớn, 1 tàu vận tải bị hư hại nặng 1 tàu sân bay hộ tống, 2 tàu đổ bộ LST bị hư hại nhẹ |
17.845 - 18.375 người chết[2][7] (bao gồm khoảng 12.000 người chưa tìm được thi thể, hầu hết thương binh tự sát để tránh bị bắt làm tù binh) 216 người bị bắt trong trận đánh 867 bị bắt sau khi trận đánh kết thúc Tất cả trang bị vũ khí bị mất 22 máy bay (cùng với 45 phi công)[1] Gần 3.000 lính vẫn còn ẩn nấp và đánh du kích sau trận đánh, chỉ đầu hàng sau vài tuần[8] | ||||||
Iwo Jima cũng là trận đánh đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ trên lãnh thổ Nhật Bản. Do đó, quân đội Hoa Kỳ đã phải đối đầu với một hệ thống phòng ngự dày đặc cùng với các công sự kiên cố, trận địa pháo được ngụy trang, địa đạo dưới mặt đất và sức chống trả ngoan cường của người Nhật dựa vào các hang động tự nhiên và địa hình núi đá hiểm trở.[9] Đỉnh Suribachi, điểm cao nhất trên hòn đảo và cũng là một vị trí phòng thủ quan trọng của quân Nhật, bị thủy quân lục chiến Mỹ đánh chiếm vào ngày 23 tháng 2 và bức ảnh sáu người lính thủy quân lục chiến cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Suribachi với tên gọi "Raising the Flag on Iwo Jima" đã trở thành biểu tượng cho trận đánh. Tuy nhiên, phải đến ngày 16 tháng 3, hòn đảo mới chính thức được người Mĩ tuyên bố an toàn với con số thương vong phía Hoa Kỳ là 6.821 người chết và 19.217 người bị thương. Trong 21.000 quân Nhật phòng thủ trên đảo thì khoảng 18.000 chết trận, chỉ có 216 người bị bắt làm tù binh (gần 3.000 lính sống sót khác tiếp tục ẩn nấp, đánh du kích và chỉ đầu hàng sau khi chiến tranh kết thúc). Số lính tử trận của Nhật Bản cao nhưng số bị thương hoặc bị bắt lại rất ít, bởi vì thương binh Nhật Bản thường sẽ tự sát để không cho đối phương bắt họ làm tù binh (theo truyền thống võ sĩ đạo Nhật Bản, bị bắt làm tù binh là một sự nhục nhã rất lớn). Đây là trận đánh duy nhất của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ mà số thương vong tổng cộng của Hoa Kỳ lớn hơn của Nhật Bản, dù số quân Nhật tử trận nhiều gấp ba lần số quân Mĩ tử trận.[7][10]
Trận Iwo Jima cũng đã làm nên tên tuổi của vị tướng người Nhật có nhiệm vụ bảo vệ hòn đảo là đại tướng Kuribayashi Tadamichi. Bất chấp việc quân đội Mĩ có ưu thế áp đảo nhiều lần về mọi mặt (quân số, hỏa lực, phương tiện), tướng Kuribayashi đã chỉ huy lực lượng của ông kháng cự với những chiến thuật khôn khéo, kết hợp với tinh thần chiến đấu đầy dũng cảm và ngoan cường của binh sĩ Nhật Bản. Kết quả là quân Nhật đã gây cho quân Mĩ những thiệt hại nặng nề, khiến các chỉ huy quân Mĩ phải bất ngờ. Quân đội Hoa Kỳ đã phải mất tới 35 ngày để chiếm đảo, lâu hơn nhiều so với kế hoạch dự kiến là 10 ngày trước đó.
Bối cảnh trận đánh đã được dựng thành nhiều bộ phim nổi tiếng, trong đó gần đây là hai bộ phim Flags of Our Fathers (Ngọn cờ cha ông) và Letters from Iwo Jima (Những bức thư từ Iwo Jima) của đạo diễn Clint Eastwood.