Convair

From Wikipedia, the free encyclopedia

Convair
Remove ads

Convair, trước đó là Consolidated Vultee, là một nhà sản xuất máy bay của Mỹ, sau đó công ty mở rộng lĩnh vực sản xuất sang tên lửa và tàu vũ trụ. Convair được thành lập vào năm 1943 từ sự sáp nhập của Consolidated AircraftVultee Aircraft. Năm 1953, công ty được General Dynamics mua lại, và trở thành một bộ phận của công ty này.

Thông tin Nhanh Ngành nghề, Tình trạng ...
Thumb
Convair F-106 Delta Dart
Thumb
Convair 880
Thumb
Tên lửa phòng không RIM-2 Terrier trên boong tàu USS Providence
Thumb
Tên lửa Atlas đang phóng lên trong sứ mệnh Friendship 7, sứ mệnh bay đưa người lên quỹ đạo đầu tiên của Mỹ.
Thumb
Atlas-Centaur cùng với tàu vũ trụ Pioneer 10 trên bệ phóng.

Convair được biết đến qua các loại máy bay quân sự mà công ty sản xuất, ví dụ như máy bay ném bom chiến lược Convair B-36 PeacemakerConvair B-58 Hustler, và máy bay đánh chặn Convair F-102 Delta DaggerConvair F-106 Delta Dart. Công ty cũng là nhà sản xuất các tên lửa Atlas thế hệ đầu, chính những tên lửa đẩy này đã đưa các nhà du hành lên vũ trụ trong Chương trình Mercury. Các tên lửa đẩy Atlas-Centaur do Convair thiết kế sau đó cũng rất thành công và các thiết kế tên lửa dẫn xuất của nó vẫn còn được sử dụng đến năm 2020.

Convair cũng tham gia thị trường máy bay phản lực chở khách thương mại với thiết kế Convair 880Convair 990. Đây là những mẫu máy bay nhỏ hơn so với các máy bay khác đương thời như Boeing 707Douglas DC-8, nhưng lại bay nhanh hơn. Sự kết hợp của các tính năng này đã không tìm được một thị trường thích hợp có lợi nhuận và công ty đã rời khỏi lĩnh vực máy bay chở khách thương mại. Tuy nhiên, kinh nghiệm trong sản xuất các mẫu máy bay này đã giúp công ty trở thành một nhà thầu phụ chính sản xuất thân máy bay.

Năm 1994, hầu hết các bộ phận của công ty được General Dynamics bán cho McDonnell Douglas và tập đoàn Lockheed, các bộ phận còn lại ngừng hoạt động vào năm 1996.

Remove ads

Lịch sử

Nguồn gốc

Công ty chế tạo máy bay Consolidated Aircraft đã sản xuất nhiều loại máy bay quan trọng trong chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt là máy bay ném bom hạng nặng B-24 Liberator và máy bay thủy phi cơ PBY Catalina cho Không quân Mỹ (Lúc này vẫn còn trực thuộc trong Lục quân Mỹ) và các nước đồng minh. Chiếc Catalina vẫn còn được sản xuất đến tháng 5 năm 1945 và đã có tổng cộng 4000 chiếc được chế tạo. Cái mà sau này gọi là "Convair", đã được thành lập vào năm 1943 nhờ sự hợp nhất của Consolidated AircraftVultee Aircraft. Việc hợp nhất này đã tạo ra một công ty sản xuất máy bay lớn, xếp thứ 4 trong số các tập đoàn của Mỹ xét về tổng giá trị hợp đồng sản xuất vũ khí trong chiến tranh, lớn hơn nhiều những gã khổng lồ như Douglas Aircraft, Boeing, và Lockheed.[1] Convair luôn là công ty dẫn đầu trong việc nghiên cứu, thiết kế, và sản xuất tại San Diego, Nam California, và các thành phố lân cận.

Kỷ nguyên phản lực, chiến tranh Lạnh, thời đại vũ trụ

Tháng 3 năm 1953, toàn bộ công ty Convair đã bị Tập đoàn General Dynamics mua lại, một tập đoàn gồm các công ty quân sự và công nghệ cao, và nó chính thức trở thành Convair Division thuộc General Dynamics.[2]

Sau khi bắt đầu Kỷ nguyên phản lực của máy bay chiến đấu và máy bay ném bom quân sự, Convair là hãng tiên phong trong thiết kế máy bay cánh bằng, cùng với công ty máy bay Dassault, là công ty đã thiết kế chế tạo máy bay tiêm kích Dassault Mirage.

Một trong số các sản phẩm nổi tiếng nhất của Convair là máy bay ném bom chiến lược 10 động cơ Convair B-36, sử dụng 4 động cơ turbojets và 6 động cơ piston cánh quạt Pratt & Whitney R-4360 Wasp Major. Chiếc Convair B-36 là chiếc máy bay ném bom động cơ piston lớn nhất trên thế giới. Tên lửa ICBM SM-65 Atlas, máy bay đánh chặn cánh delta F-102 Delta DaggerF-106 Delta Dart, và máy bay ném bom hạt nhân siêu âm B-58 Hustler. Trong một khoảng thời gian thập niên 1960, Convair đã sản xuất dòng máy bay chở khách thương mại, chiếc Convair 880Convair 990 Coronado, nhưng không mang lại nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, Convair lại thu được nhiều lợi nhuận khi là nhà thầu phụ sản xuất thân máy bay cho các công ty khác như McDonnell Douglas, Boeing, và Lockheed.

Những năm 1950, Convair đã dành nhiều tiền và nỗ lực vào các dự án tên lửa, kết quả là sự ra đời của tên lửa phòng không hạm RIM-2 Terrier cho Hải quân Mỹ vào những năm 1960, 1970. Convair cũng phát triển tên lửa SM-65 Atlas từ năm 1957, sau trở thành tên lửa ICBM đầu tiên của Không quân Mỹ. Năm 1962, SM-65 được thay thế bằng tên lửa nhiên liệu lỏng LGM-25C Titan II và tên lửa nhiên liệu rắn LGM-30 Minuteman. Tên lửa Atlas về sau trở thành tên lửa đẩy phục vụ trong chương trình bay vào vũ trụ có người lái của Mỹ (Chương trình Mercury) năm 1962 và năm 1963.

Tên lửa đẩy Atlas tiếp tục trở thành một tầng đẩy, kết hợp với tầng đẩy mang tải trọng Centaur, tạo thành tên lửa đẩy Atlas-Centaur để phóng vệ tinh viễn thông và các tàu thăm dò vũ trụ. Centaur cũng được thiết kế, phát triển và sản xuất bởi Convair, và nó là tên lửa không gian đầu tiên sử dụng nhiên liệu siêu lạnh Hydro lỏngLOX được sử dụng rộng rãi. Đây cũng là tiền đề để các kỹ sư sử dụng cùng một loại nhiên liệu/chất oxy hóa trên tầng đẩy thứ 2 (S-II) của tên lửa đẩy Saturn và tầng đẩy thứ 3 (S-IVB) của tên lửa đẩy Saturn V trong chương trình Apollo đưa người lên Mặt trăng của Mỹ. Tầng đẩy S-IVB trước đó cũng được sử dụng làm tầng đẩy thứ hai của tên lửa Saturn IB nhỏ hơn, chẳng hạn như tên lửa được sử dụng để phóng tàu Apollo 7. Tầng đẩy Centaur được thiết kế và phát triển từ năm 1966 để đưa tàu đổ bộ mặt trăng Surveyor lên quỹ đạo, để bổ sung lực đẩy cho tên lửa Atlas và tăng thêm tải trọng mà tên lửa mang được lên Mặt trăng.

Đã có hơn 100 tên lửa Atlas-Centaur được Convair sản xuất (bao gồm cả những tên lửa có tên kế nhiệm) và được sử dụng để phóng thành công hơn 100 vệ tinh. Tên lửa Atlas-Centaur cũng là tên lửa đẩy đã phóng tàu thăm dò không gian Pioneer 10Pioneer 11.

Ngoài máy bay, tên lửa và phương tiện phóng tàu vũ trụ, Convair đã phát triển các ống chân không Charactron, một dạng màn hình máy tính hiển thị ống tia âm cực (CRT)[3] cùng với thuật toán CORDIC và các hệ thống điện tử khác.

Giải thể

General Dynamics tuyên bố bán Bộ phận hệ thống tên lửa của Convair cho Hughes Aircraft Company vào tháng 5 năm 1992 [4] và Bộ phận hệ thống vũ trụ cho Martin Marietta vào năm 1994.[5] Tháng 7 năm 1994, General Dynamics và McDonnell Douglas đã thỏa thuận cùng nhau ngừng hợp đồng cung cấp thân vỏ máy bay 300 chỗ ngồi MD-11 của Convair.[6] Việc sản xuất sẽ được chuyển sang cho McDonnell Douglas. General Dynamics đã cố gắng trong hai năm để bán mảng kết cấu máy bay của Convair, nhưng nỗ lực cuối cùng đã thất bại.

Việc chấm dứt hợp đồng có nghĩa là sự chấm dứt của Bộ phận Convair và sự hiện diện của General Dynamics tại San Diego, cũng như truyền thống chế tạo máy bay lâu đời của thành phố. Nhà thầu quốc phòng đã từng tuyển dụng 18.000 người nhưng con số đó giờ là con số không. General Dynamics cũng đóng cửa khu phức hợp của mình ở Kearny Mesa, phá dỡ nhà máy từ năm 1994 đến năm 1996, nhường chỗ cho nhà ở và các khu văn phòng. Nhà máy Lindbergh Field từng là nơi sản xuất những chiếc B-24 trong Thế chiến thứ hai cũng bị phá bỏ nhường chỗ cho cơ sở cho thuê ô tô.

Nhà máy tại Fort Worth, Texas, là nơi chế tạo máy bay ném bom B-24 Liberator, đã từng sản xuất hàng trăm chiếc máy bay ném bom Consolidated B-24, máy bay tiêm kích bom General Dynamics F-111 Aardvark và tiêm kích General Dynamics F-16 Fighting Falcon, cùng với hàng tá các dự án nhỏ hơn khác — bị bán cùng với tất cả tài sản trí tuệ và quyền hợp pháp đối với các sản phẩm được thiết kế và chế tạo cho Lockheed Corporation.[7] Năm 1996, General Dynamics cho ngừng hoạt động toàn bộ Division Convair còn lại.

Remove ads

Mốc thời gian

[8][9][10][11][12]

  • 1923 Consolidated Aircraft Corporation được thành lập bởi Thiếu tá Reuben H. Fleet
  • 1934 AVCO mua lại Airplane Development Corporation từ Cord và thành lập Aviation Manufacturing Corporation (AMC)
  • 1936 AMC thanh lý để thành lập Vultee Aircraft Division, một công ty con của AVCO
  • 1939 Vultee Aircraft Division của AVCO tái cơ cấu thành một công ty độc lập mang tên Vultee Aircraft, Inc.
  • 1941 Consolidated Aircraft Corporation được bán cho AVCO
  • 1943 Consolidated-Vultee thành lập từ sự sáp nhập của Consolidated Aircraft và Vultee Aircraft; vẫn do AVCO quản lý.
  • 1947 Convair bị mua lại bởi Atlas Corporation
  • 1953-1954 Convair bị mua lại bởi General Dynamics[13][14]
  • 1985 General Dynamics thành lập "Space Systems Division" từ Convair Space Program
  • 1992 Missile Systems Division được bán cho Hughes Aircraft Company
  • 1994 Space Systems Division được bán cho Martin Marietta (nay là Lockheed Martin)
  • 1994 Cơ sở tại Fort Worth được bán cho Lockheed Corporation
  • 1994 Đơn vị Convair Aircraft Structures được bán cho McDonnell Douglas (nay là Boeing)
Remove ads

Các sản phẩm đã chế tạo

Máy bay

Thumb
Convair B-36 Peacemaker, sử dụng cả động cơ piston và động cơ phản lực ở các phiên bản sau này
Thumb
Convair CV-340
Thumb
Chiếc XF-92A là chiếc máy bay cánh delta đầu tiên của Mỹ
Thumb
Convair B-58 Hustler
Thêm thông tin Model, Bay thử lần đầu ...

Tên lửa

  • RTV-A-2 Hiroc (1946) – Tên lửa tầm cao
  • SAM-N-2 Lark (late 1940s) – Tên lửa phòng không hạm
  • MX-774 (1948) – tiền thân của tên lửa Atlas
  • XSM-74 (1950s) – tên lửa hành trình bia bay
  • RIM-2 Terrier (1951) – tên lửa phòng không hạm
  • RIM-24 Tartar (1962) – tên lửa phòng không hạm
  • XGAM-71 Buck Duck (1955) – tên lửa bia bay
  • Sky Scorcher (1956) – tên lửa không đối không
  • Pye Wacket (1957) – dự án phát triển tên lửa không đối không bị hủy bỏ
  • FIM-43 Redeye (1960) – tên lửa phòng không mang vác
  • Atlas (dòng tên lửa) (1959) tên lửa đẩy
  • Centaur (1962)
  • BGM-109- tên lửa hành trình Tomahawk.
  • AGM-129 tên lửa hành trình tính năng cao (1983) – tàng hình, mang đầu đạn hạt nhân, phóng từ máy bay.
Remove ads

Tham khảo

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads