Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc
luật cơ bản của Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc (tiếng Trung: 中華民國憲法; bính âm: Zhōnghuá Mínguó Xiànfǎ) là bản hiến pháp thứ năm và hiện hành của Trung Hoa Dân Quốc (ROC), được Quốc Dân Đảng phê chuẩn trong kỳ họp Quốc hội Lập hiến ngày 25 tháng 12 năm 1946 tại Nam Kinh, và được thông qua vào ngày 25 tháng 12 năm 1947. Hiến pháp này, cùng với các Điều khoản Bổ sung, vẫn có hiệu lực tại các vùng lãnh thổ do Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát.
Mặc dù được thiết kế cho toàn bộ lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc khi mới thành lập, nhưng Hiến pháp này chưa bao giờ được thực thi rộng rãi và hiệu quả do Nội chiến Trung Quốc bùng nổ tại Trung Quốc đại lục vào thời điểm ban hành Hiến pháp. Quốc hội mới đắc cử đã sớm phê chuẩn Điều khoản Tạm thời chống lại Cuộc nổi dậy của Cộng sản vào ngày 10 tháng 5 năm 1948. Điều khoản Tạm thời này tượng trưng cho việc đất nước bước vào tình trạng khẩn cấp và trao cho chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân Đảng lãnh đạo những quyền lực ngoài hiến pháp.
Sau khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan vào ngày 7 tháng 12 năm 1949, Điều khoản Tạm thời cùng với thiết quân luật đã biến Đài Loan thành một nhà nước độc đảng độc tài bất chấp hiến pháp. Quá trình dân chủ hóa bắt đầu vào những năm 1980. Thiết quân luật được dỡ bỏ vào năm 1987, và Điều khoản Tạm thời bị bãi bỏ vào năm 1991. Các Điều khoản Bổ sung của Hiến pháp được thông qua để phản ánh thẩm quyền thực tế của chính phủ và việc thực hiện quan hệ xuyên eo biển. Các Điều khoản Bổ sung cũng đã thay đổi đáng kể cấu trúc chính phủ thành chế độ bán tổng thống với quốc hội đơn viện, tạo thành nền tảng cho nền dân chủ đa đảng ở Đài Loan.
Trong những năm 1990 và đầu những năm 2000, nguồn gốc của Hiến pháp từ Trung Quốc đại lục đã khiến những người ủng hộ Đài Loan độc lập thúc đẩy một hiến pháp mới cho Đài Loan.[4][5][6] Tuy nhiên, những nỗ lực của chính quyền Đảng Dân chủ Tiến bộ nhằm tạo ra một hiến pháp mới trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống DPP Trần Thủy Biển đã thất bại, bởi vì Quốc dân đảng đối lập lúc bấy giờ kiểm soát Viện Lập pháp.[7] Họ chỉ đồng ý cải cách Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, chứ không lập ra một hiến pháp mới. Lần sửa đổi gần đây nhất của Hiến pháp là vào năm 2005, với sự đồng thuận của cả Quốc Dân Đảng và DPP. Lần sửa đổi gần đây nhất đối với hiến pháp diễn ra vào năm 2004.[8]
Remove ads
Lịch sử
Nguồn gốc
Trung Hoa thời phong kiến đã áp dụng hệ thống hiến pháp đan xen giữa sự phân bổ quyền lực theo chế độ phong kiến và chế độ chuyên chế tập trung. Ý tưởng về chế độ quân chủ lập hiến và hiến pháp thành văn đã trở nên có ảnh hưởng vào cuối thế kỷ 19, phần lớn được lấy cảm hứng trực tiếp từ tiền lệ của Hiến pháp Minh Trị ở Nhật Bản. Nỗ lực đầu tiên hướng tới chủ nghĩa hiến pháp ở Trung Quốc là trong cuộc Bách nhật duy tân diễn ra vào năm 1898 bởi Hoàng đế Quang Tự trẻ tuổi và những người ủng hộ có tư tưởng cải cách của ông, nhưng một cuộc đảo chính của những người theo chủ nghĩa quân chủ bảo thủ trung thành với Từ Hy Thái hậu đã chấm dứt nỗ lực này. Tuy nhiên, chính phe này cuối cùng đã áp dụng chính sách chuyển đổi sang chủ nghĩa hiến pháp. Tuy nhiên, văn kiện hiến pháp đầu tiên chỉ được công bố vào năm 1908, và văn kiện hiến pháp đầu tiên có hiệu lực pháp lý ("Mười chín Điều ước") đã không được thực hiện cho đến năm 1911, sau khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh vào năm sau đó.
Lịch sử thuộc địa
Sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, Hiệp ước Shimonoseki đã trao cho Nhật Bản toàn quyền chủ quyền đối với Đài Loan. Việc Trung Quốc nhượng lại Quận Đài Loan sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chế độ hiến pháp của hòn đảo này: Nhật Bản đã ban hành Hiến pháp Minh Trị sáu năm trước đó. Sau đó, chế độ thực dân của Nhật Bản đã gây ra những cuộc tranh luận gay gắt xung quanh việc áp dụng Hiến pháp Minh Trị đối với các chính quyền thuộc địa. Mặc dù chính quyền đầu sỏ Minh Trị tuyên bố rằng hiến pháp của họ sẽ không được áp dụng cho các thuộc địa, người dân Đài Loan khẳng định rằng việc họ nhập tịch với tư cách là công dân Nhật Bản đã đảm bảo các quyền được nêu trong Hiến pháp Minh Trị.[9] Những cuộc tranh luận pháp lý này đã lên đến đỉnh điểm khi Đài Loan được trao quy chế pháp lý đặc biệt - Đài Loan trên danh nghĩa được quản lý theo hiến pháp.[10] Tuy nhiên, các quyền hiến định liên tục bị quân đội và cảnh sát nhà nước Nhật Bản vi phạm. Các thể chế đại diện không được thiết lập theo hiến pháp. Tương tự như vậy, Thiên Hoàng Minh Trị đã trao phần lớn quyền hành pháp và lập pháp cho Toàn quyền Đài Loan, một nhà lãnh đạo quân sự được bổ nhiệm.[11]
Những năm 1920 chứng kiến sự trỗi dậy của các phong trào chính trị bản địa khi các nhà hoạt động Đài Loan đấu tranh cho quyền tự chủ địa phương và các quyền tự do chính trị lớn hơn. Từ năm 1921 đến năm 1934, các nhà hoạt động chính trị đã cố gắng kiến nghị chính phủ Đế quốc Nhật Bản thành lập hội đồng nghị viện Đài Loan, nhưng không thành công. Ngược lại, sự thành lập của Liên minh Tự trị Địa phương Đài Loan (臺灣地方自治聯盟 [zh]) vào năm 1930 cuối cùng đã góp phần vào cuộc bầu cử hội đồng thành phố và thị trấn hạn chế vào năm 1935.[12] Để nhượng bộ trước các phong trào chính trị này, chính quyền thực dân Nhật Bản đã thành lập các hội đồng để kết nối dư luận với nhà nước. Một nửa số thành viên hội đồng được bầu trực tiếp bởi cử tri trong khi nửa còn lại được chính phủ bổ nhiệm.[13] Ngày 22 tháng 11 năm 1935 đánh dấu ngày quan trọng khi các cơ quan khu vực tự trị của Đài Loan tổ chức bầu cử. Chỉ những nam giới trưởng thành có địa vị kinh tế xã hội cao hơn mới đủ điều kiện tham gia.[14]
Hiến pháp Minh Trị không phải là sự áp đặt hiến pháp cuối cùng của Đài Loan: Đài Loan sẽ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp khác khi chính quyền Quốc dân đảng của Trung Quốc chạy sang Đài Loan trong Nội chiến Trung Quốc. Theo học giả luật pháp Đài Loan Yeh Jiunn-rong, những bản hiến pháp này sẽ để lại một di sản lâu dài cho chủ nghĩa hiến pháp của Đài Loan: chúng truyền cảm hứng cho quá trình bản địa hóa hiến pháp với các khuôn khổ khác biệt của chúng, đóng vai trò là nền tảng cho bản sắc hiến pháp cuối cùng của Đài Loan.[15] Ngay cả ngày nay, tàn dư của chủ nghĩa thực dân Nhật Bản vẫn tồn tại trong hệ thống chính trị của Đài Loan. Cho đến năm 2005, Đài Loan vẫn duy trì hệ thống bỏ phiếu không thể chuyển nhượng (SNTV), một minh chứng cho Hiến pháp Minh Trị. Có nguồn gốc từ Nhật Bản, hệ thống SNTV trao cho cử tri một phiếu bầu trong các khu vực bầu cử nhiều thành viên. Không giống như bỏ phiếu có thể chuyển nhượng (STV), phiếu bầu không thể chuyển nhượng. Do đó, phiếu bầu dư thừa từ một ứng cử viên không thể được chuyển cho các ứng cử viên khác. Hệ thống bầu cử này tồn tại ở Nhật Bản cho đến năm 1994, nhưng vẫn tồn tại ở một hình thức hạn chế ở Đài Loan.[16]
Những nỗ lực ban đầu của Hiến pháp Trung Hoa
Hiến pháp Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc được soạn thảo vào tháng 3 năm 1912 và hình thành nên văn kiện chính phủ cơ bản của Trung Hoa Dân Quốc cho đến năm 1928. Hiến pháp này quy định một hệ thống nghị viện kiểu phương Tây do một tổng thống yếu kém đứng đầu. Tuy nhiên, hệ thống này nhanh chóng bị lật đổ khi Tống Giáo Nhân bị ám sát theo lệnh của Tổng thống Viên Thế Khải.[17] Tống Giáo Nhân là lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, người sau này trở thành thủ tướng sau chiến thắng của đảng trong cuộc bầu cử năm 1912. Viên Thế Khải thường xuyên bất chấp quốc hội và nắm quyền độc tài. Sau khi ông qua đời vào năm 1916, Trung Quốc tan rã thành chế độ quân phiệt và Chính phủ Bắc Dương hoạt động theo Hiến pháp vẫn nằm trong tay các nhà lãnh đạo quân sự khác nhau.
Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch đã thiết lập quyền kiểm soát phần lớn Trung Quốc vào năm 1928. Chính phủ Quốc dân đảng đã ban hành Hiến pháp Lâm thời của Thời kỳ Bảo hộ Chính trị vào ngày 5 tháng 5 năm 1931. Theo văn bản này, chính phủ hoạt động theo chế độ độc đảng với quyền lực tối cao do Đại hội Đại biểu Quốc dân Đảng nắm giữ và quyền lực thực tế do Ủy ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng nắm giữ. Theo mô hình Lenin, Hiến pháp này cho phép một hệ thống ủy ban đảng - nhà nước làm nền tảng cho chính phủ. Quốc Dân Đảng dự định Hiến pháp này sẽ có hiệu lực cho đến khi đất nước được bình định và người dân được "giáo dục" đầy đủ để tham gia vào chính quyền dân chủ.
- Ủy ban soạn thảo Hiến pháp ban đầu của nước Trung Hoa Dân Quốcmới thành lập, được chụp ảnh trên bậc thềm của Đền Thiên Đàn ở Bắc Kinh, nơi bản dự thảo được hoàn thành vào năm 1913.
- Các thành viên Ủy ban soạn thảo dự thảo hiến pháp năm 1913
Quá trình soạn thảo
Hiến pháp lần đầu tiên được Quốc Dân Đảng (KMT) soạn thảo như một phần của giai đoạn phát triển quốc gia thứ ba (tức là dân chủ đại diện), thiết lập một nước cộng hòa tập trung với "năm nhánh chính quyền"" (五權分立). Hiến pháp này bắt nguồn từ cuối Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Sự bùng nổ sắp xảy ra của Nội chiến Trung Quốc đã gây áp lực buộc Tưởng Giới Thạch phải ban hành một Hiến pháp dân chủ, chấm dứt chế độ độc đảng của Quốc Dân Đảng. Đảng Cộng sản đã tìm kiếm một liên minh gồm một phần ba Quốc Dân Đảng, một phần ba Cộng sản và một phần ba các đảng phái khác để thành lập một chính phủ soạn thảo hiến pháp mới. Tuy nhiên, mặc dù bác bỏ ý tưởng này, Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cùng nhau tổ chức một hội nghị, trong đó cả hai đảng đều trình bày quan điểm. Giữa những cuộc tranh luận gay gắt, nhiều yêu cầu của Đảng Cộng sản đã được đáp ứng, bao gồm cả việc bầu cử phổ thông Lập pháp Viện. Các dự thảo này được gọi chung là Dự thảo Hiến pháp của Hội nghị Chính trị (政協憲草). Giáo sư John Ching Hsiung Wu, Phó Chủ tịch Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp, là tác giả chính của văn bản này.[18] Hiến pháp, với những sửa đổi nhỏ từ bản thảo mới nhất, đã được kỳ họp Quốc hội Lập hiến thông qua vào ngày 25 tháng 12 năm 1946 tại Nam Kinh, được Chính phủ Quốc gia ban hành vào ngày 1 tháng 1 năm 1947, và là hiến pháp Trung Quốc thứ năm và hiện hành chính thức có hiệu lực vào ngày 25 tháng 12 năm 1947. Hiến pháp được coi là giai đoạn thứ ba và cuối cùng của Quốc dân đảng tái thiết Trung Quốc. Những người Cộng sản, mặc dù đã tham dự hội nghị và tham gia soạn thảo hiến pháp, đã tẩy chay Quốc hội và tuyên bố sau khi phê chuẩn rằng họ không những không công nhận Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc mà tất cả các dự luật do chính quyền Quốc dân đảng thông qua cũng sẽ bị bỏ qua. nhờ thành tích của họ trong cuộc bầu cử (khoảng 800 trên tổng số 3045 ghế), việc họ tẩy chay không ngăn cản Quốc hội đạt đủ số đại biểu cần thiết và do đó bầu Tưởng Giới Thạch và Lý Tông Nhân làm chủ tịch và phó chủ tịch. Chu Ân Lai đã thách thức tính hợp pháp của Quốc hội vào năm 1947 khi khẳng định rằng Quốc dân đảng đã đích thân lựa chọn các thành viên của mình từ 10 năm trước, do đó Quốc hội không thể là đại diện hợp pháp của nhân dân Trung Quốc.
- Hội nghị Hiệp thương Chính trị tại Trùng Khánh, dự thảo hiến pháp mới nhất đã được nhiều đảng phái chính trị khác nhau bao gồm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc thảo luận.
- Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Chính phủ Quốc dân, đã chuyển dự thảo được Hội nghị Hiệp thương Chính trị thông qua cho Hồ Thích, chủ tịch luân phiên của Quốc hội Lập hiến.
- Ngô Chí Huy, Chủ tịch Quốc hội lập hiến, trao bản hiến pháp đã được phê chuẩn cho Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Chính phủ Quốc dân
Remove ads
Nội dung
Chủ nghĩa Tam Dân
Trong Điều 1, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập dựa trên Chủ nghĩa Tam Dân (Chinese: 三民主義; pinyin: Sān Mín Zhǔyì), bao gồm Dân tộc (民族), Dân quyền (民權), và Dân sinh (民生).[19] Điều này thiết lập Trung Quốc là một "nước cộng hòa dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". Điều 2 khẳng định chủ quyền quốc gia bắt nguồn từ nhân dân. Theo Điều 3, người có quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc là công dân của Trung Hoa Dân Quốc. Cuối cùng, Điều 5 đảm bảo sự bình đẳng giữa các sắc tộc trong quốc gia.
Quyền dân sự và chính trị của công dân
Các quyền và nghĩa vụ dân sự cơ bản của công dân được quy định tại Chương 2 của Hiến pháp. Chương 12 quy định bốn quyền chính trị của công dân: bầu cử công chức, bãi nhiệm công chức, sáng kiến lập pháp và trưng cầu dân ý.
Ngũ quyền Phân lập (Viện)
Khác với sự phân chia các nhánh quyền lực thông thường, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc thiết lập chế độ quản trị hiến pháp bán nghị viện với năm nhánh quyền lực. Năm nhánh của chính quyền hay Nguyên (院) bao gồm: Hành pháp viện (行政院), Lập pháp viện (立法院), Tư pháp viện (司法院), Khảo thí viện (考試院), và Giám sát viện (監察院). Sự phân chia năm quyền lực dựa trên lý thuyết chính trị cách mạng của Tôn Dật Tiên. Năm 1906, Tôn Dật Tiên đề xuất hệ thống năm quyền lực cho Trung Quốc, bổ sung thêm Khảo thí viện (考試院), và Giám sát viện (監察院) để cải thiện hiệu quả của chính quyền và ngăn chặn tham nhũng. Theo hệ thống này, Khảo thí viện quản lý việc lựa chọn các ứng viên quan liêu trong khi Giám sát viện giám sát sự liêm chính của chính quyền. Chương 5–9 của Hiến pháp quy định thẩm quyền của năm Viện. Nếu xảy ra tranh chấp hiến pháp giữa Viện, Điều 44 cho phép Tổng thống can thiệp bằng các phiên hòa giải. Tuy nhiên, quyền này có thể bị kiemr soát bởi các Viện, bởi họ vẫn có quyền từ chối lời kêu gọi hòa giải của Tổng thống.[20]
Các nhóm chủng tộc ở vùng biên giới
Tư tưởng của Quốc dân Đảng Trung Quốc trong Cách mạng Tân Hợi là tạo ra sự thống nhất giữa năm dân tộc truyền thống ở Trung Quốc (Hán, Mãn, Mông Cổ, Hồi (Hồi giáo) và Tây Tạng) để cùng nhau đứng lên chống lại chủ nghĩa đế quốc châu Âu và Nhật Bản như một quốc gia hùng mạnh. Hiến pháp có các điều khoản bảo vệ sự bình đẳng của các chủng tộc khác nhau và quyền chính trị của các nhóm chủng tộc ở vùng biên giới. Tuy nhiên, vì một số tỉnh tương tự như Trung Quốc đã được thành lập ở Mãn Châu và Tân Cương, nên chỉ có việc bảo vệ quyền tự trị địa phương ở Khu vực Nội Mông[21] và Khu vực Tây Tạng được quy định rõ ràng.
Remove ads
Phân quyền
Quốc hội
Dựa trên học thuyết chính trị của Tôn Dật Tiên, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc phân biệt quyền lực chính trị với quyền lực cai trị, tạo ra một chiều hướng khác cho sự kiểm tra và cân bằng. Hiến pháp đã giới thiệu một cơ quan lập pháp có thẩm quyền mạnh mẽ - Quốc dân Đại hội (Tiếng Trung: 國民大會; pinyin: Guómín Dàhuì),thực hiện các quyền lực chính trị bắt nguồn từ nhân dân (Điều 25).[22] Do đó, Quốc hội có chức năng kiểm tra các thể chế quốc gia có quyền lực cai trị: Tổng thống và Ngũ viện. Các thành viên của Quốc hội được nhân dân trực tiếp bầu ra với nhiệm kỳ sáu năm trong các cuộc bầu cử mở (Điều 28). Theo Điều 27, Quốc hội có quyền sửa đổi Hiến pháp, thực hiện các sáng kiến và trưng cầu dân ý thay mặt cho công dân, và bầu hoặc bãi nhiệm Tổng thống và Phó Tổng thống. Cùng với Lập pháp Viện và Giám sát Viện, Quốc dân Đại hội có các chức năng của quốc hội, gây ra sự nhầm lẫn xung quanh việc thể chế nào đóng vai trò là quốc hội của quốc gia. Lập pháp Viện, Quốc hội và Giám sát Viện đều là các cơ quan do công dân bầu ra; Tương tự như vậy, Quốc hội và Giám sát Viện thực thi các quyền hạn hiến định tương tự như các quyền hạn được trao cho nhánh lập pháp của các chính phủ lập hiến phương Tây.[23] Năm 1957, Tòa án Hiến pháp phán quyết rằng Quốc hội, Viện Lập pháp và Viện Kiểm sát đều "tương đương với quốc hội của các quốc gia dân chủ", tạo ra một hệ thống nghị viện tam quyền phân lập.[24] Các cải cách hiến pháp trong những năm 1990 sau đó đã tìm cách cô đọng quyền hạn và chức năng của ba quốc hội thành một cơ quan duy nhất. Sau khi dần dần chuyển giao quyền lực cho Lập pháp Viện, Quốc hội đã tự giải thể vào năm 2005.[25]
Tổng thống
Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc (Chinese: 總統; pinyin: Zǒngtǒng) là nguyên thủ quốc gia và là Tổng Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Trung Hoa Dân Quốc. Cho đến năm 1996, Tổng thống và Phó Tổng thống do Quốc hội bầu ra. Sau nhiều lần sửa đổi hiến pháp vào những năm 1990, Tổng thống được bầu thông qua bầu cử phổ thông tự do vào năm 1996. Cả Tổng thống và Phó Tổng thống đều phục vụ nhiệm kỳ bốn năm và có thể được tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ. Ban đầu, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc quy định Tổng thống là một nhân vật mang tính nghi lễ, chủ trì một nước cộng hòa nghị viện: Tổng thống có thể ban hành lệnh đại xá và ân xá (Điều 40), trao tặng danh hiệu và huân chương (Điều 42), ban hành sắc lệnh khẩn cấp (Điều 43), và ra phán quyết trọng tài trong các tranh chấp giữa nhiều Viện (Điều 44).[26] Các điều khoản khác liệt kê các quyền hạn liên quan, cho phép Tổng thống tuyên chiến và lập hòa (Điều 38), ban bố thiết quân luật với sự chấp thuận của Lập pháp Viện (Điều 39), và bổ nhiệm hoặc cách chức các quan chức quân sự (Điều 41). Tuy nhiên, sự kết hợp giữa nội chiến Trung Quốc và những xung lực độc đoán mạnh mẽ của Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã dẫn đến sự mở rộng đáng kể quyền lực của tổng thống, chuyển Trung Hoa Dân Quốc sang chế độ bán tổng thống. Năm 1948, Quốc hội đã phê chuẩn Điều khoản Tạm thời Chống Khởi nghĩa Cộng sản, thay thế Hiến pháp bằng cách trao cho Tổng thống các quyền hành pháp và hành chính được tăng cường.[27] Theo Điều khoản Tạm thời, Tổng thống không còn bắt buộc phải có sự chấp thuận của Viện Lập pháp khi ban bố thiết quân luật như quy định tại Điều 39.[28] Ngoài ra, Tổng thống và Phó Tổng thống có thể bỏ qua giới hạn hai nhiệm kỳ để tái đắc cử như được mô tả trong Điều 47. Kết quả là, Tưởng Giới Thạch đã phục vụ năm nhiệm kỳ sáu năm (hai mươi bảy năm) với tư cách là tổng thống trước khi qua đời vào năm 1975. Các Điều khoản tạm thời sẽ tồn tại ở Đài Loan trong bốn mươi ba năm cho đến khi nó bị bãi bỏ vào năm 1991. Tuy nhiên, vai trò của Tổng thống vẫn còn mơ hồ về mặt hiến pháp cho đến ngày nay.
Hành chính Viện
Hành chính Viện (Chinese: 行政院; pinyin: Xíngzhèngyuàn)là nhánh hành pháp của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc và là "cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước."[29] Viện trưởng Hành chính Viện là Thủ tướng, do Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc bổ nhiệm và không còn cần sự chấp thuận của Lập pháp Viện. Thủ tướng có thể bị bãi nhiệm bằng một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của đa số Lập pháp Viện, sau đó Tổng thống có thể bãi nhiệm Thủ tướng hoặc giải tán Lập pháp Viện và khởi xướng một cuộc bầu cử mới cho các nhà lập pháp. Theo chế độ bán tổng thống của chính quyền hiến định, Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ trong khi Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Mặc dù Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Lập pháp Viện - một đặc điểm chung của hệ thống nghị viện - nhưng việc mở rộng quyền lực của Tổng thống đã làm thay đổi cơ chế kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh của chính phủ; về mặt chức năng, Thủ tướng đã trở thành cấp dưới của Tổng thống.
Hội đồng Hành chính Viện, được gọi là "Nội các" (Chinese: 內閣; pinyin: Nèigé),bao gồm một Thủ tướng, một Phó Thủ tướng, một số Bộ trưởng và Chủ nhiệm các Ủy ban, và một số Bộ trưởng không bộ (MWPs). Theo Điều 56, các thành viên nội các này được Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Nội các đóng vai trò là cơ quan hoạch định chính sách chủ chốt của nhánh hành pháp, triệu tập các cuộc họp Nội các hàng tuần để giải quyết các vấn đề hành chính. Điều 58 cho phép Nội các xem xét các dự luật theo luật định hoặc ngân sách liên quan đến thiết quân luật hoặc đại xá, tuyên chiến, ký kết hòa bình hoặc hiệp ước, và các vấn đề khác; sau đó Nội các trình các dự luật lên Viện Lập pháp. Nội các quyết định thông qua bỏ phiếu đa số, có thể bị Thủ tướng phủ quyết. Ngoài ra, Nội các chủ trì "các vấn đề thuộc mối quan tâm chung của các Bộ và Ủy ban khác nhau".
Lập pháp Viện
Lập pháp Viện (Chinese: 立法院; pinyin: Lìfǎyuàn) là cơ quan lập pháp đơn viện của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc và là "cơ quan lập pháp cao nhất của Nhà nước"[30] Lập pháp Viện bao gồm 113 nghị sĩ, được bầu trực tiếp bởi cử tri thông qua hệ thống bầu cử song song với nhiệm kỳ 4 năm. Giống như quốc hội ở các quốc gia khác, Lập pháp Viện thông qua luật, sau đó được trình lên Tổng thống để ký. Lập pháp Viện do Chủ tịch và Phó Chủ tịch lãnh đạo, được bầu bởi tất cả các thành viên của Viện. Chủ tịch Viện Lập pháp sau đó chủ trì các kỳ họp của Viện, tức là các cuộc họp định kỳ của Viện.
Theo Chương IV, Hành chính Viện chịu trách nhiệm trước Lập pháp Viện . Điều 63 trao quyền cho Lập pháp Viện phê duyệt các dự luật hoặc dự thảo ngân sách hoặc các dự luật do Hành chính Viện trình lên. Theo Điều 57, nếu Lập pháp Viện không đồng tình với các chính sách quan trọng của Hành chính Viện, "Viện có thể, bằng nghị quyết, yêu cầu Hành chính Viện sửa đổi chính sách đó". Sau đó, Hành chính Viện phải phản hồi nghị quyết này và có thể yêu cầu sửa đổi dự luật. Hành chính Viện cũng có thể yêu cầu Lập pháp Viện xem xét lại nghị quyết của mình sau khi được Tổng thống phê chuẩn. Nếu hai phần ba số thành viên Lập pháp Viện ủng hộ nghị quyết ban đầu sau khi xem xét lại, Thủ tướng sẽ phải chấp hành nghị quyết hoặc từ chức.
Chính quyền địa phương: Tỉnh và Huyện
Trong Chương XI của Hiến pháp, đất nước bao gồm hai loại cấp chính quyền địa phương: Tỉnh (cấp một, Mục I) và Huyện (cấp hai, Mục II).
![]() |
![]() |
Tỉnh là đơn vị hành chính cấp một của đất nước. Nó bao gồm 35 tỉnh, 1 đặc khu hành chính, 2 khu vực, 18 thành phố trực thuộc trung ương, 14 Minh và 4 Kỳ. Theo Điều 113, mỗi chính quyền cấp tỉnh sẽ có một hội đồng và tỉnh trưởng, với các thành viên của hội đồng tỉnh được bầu trực tiếp bởi nhân dân trong tỉnh. Điều 118 mô tả chế độ tự quản của các thành phố trực thuộc Hành chính Viện. Điều 119 và 120 bảo lưu quyền tự trị của Nội Mông (bao gồm các Minh và Kỳ) và khu vực Tây Tạng do Kashag lãnh đạo.[31][32]
Các huyện (còn được viết là hsien) bao gồm các đơn vị hành chính cấp hai trực thuộc tỉnh với 2.035 huyện, 56 thành phố trực thuộc tỉnh, 34 sở và 7 cơ quan hành chính, với các thành phố trực thuộc trung ương và minh bao gồm các quận và 127 kỳ. Điều 124 và 126 quy định rằng mỗi chính quyền cấp huyện cần có hội đồng huyện và thẩm phán, mỗi thành viên và thẩm phán sẽ do nhân dân trong huyện bầu ra. Điều 127 quy định thẩm phán là người đứng đầu chính quyền tự quản của huyện địa phương và sẽ quản lý các vấn đề được chính quyền trung ương hoặc tỉnh ủy quyền cho huyện.
Tuy nhiên, mặc dù mất đi phần lớn lãnh thổ, ngay cả sau khi dân chủ hóa, các tỉnh đã bắt đầu được tinh giản vào năm 1998 với các huyện và thành phố trực thuộc tỉnh trực thuộc Hành chính Viện, và chính quyền Thái Anh Văn đã thực tế đình chỉ tất cả các chính quyền tỉnh vào năm 2018.
Remove ads
Đình chỉ Hiến pháp và thiết quân luật
Việc thực thi hiến pháp này đã đưa Trung Quốc, với dân số 450 triệu người vào thời điểm đó, trở thành "nền dân chủ giấy" đông dân nhất. Mặc dù Hiến pháp được ban hành cho toàn bộ Trung Quốc, nhưng nó không được thực thi rộng rãi và hiệu quả vì Quốc Dân Đảng đã hoàn toàn sa lầy vào cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc vào thời điểm ban hành.
Ngày 10 tháng 1 năm 1947, Thống đốc Trần Nghị tuyên bố rằng Hiến pháp mới của Trung Hoa Dân Quốc sẽ không áp dụng cho Đài Loan sau khi nó có hiệu lực tại Trung Quốc đại lục vào ngày 25 tháng 12 năm 1947, vì Đài Loan vẫn đang bị quân đội chiếm đóng và người Đài Loan còn ngây thơ về mặt chính trị và không có khả năng tự quản.[33] Cuối năm đó, Trần Nghị bị cách chức và Chính quyền Tỉnh Đài Loan được thành lập.
Ngày 18 tháng 4 năm 1948, Quốc hội đã bổ sung vào Hiến pháp "Điều khoản Tạm thời chống lại Phong trào Cộng sản". Điều khoản Tạm thời có hiệu lực vào ngày 10 tháng 5 năm 1948, mười ngày trước lễ nhậm chức của Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc. Những điều khoản này đã tăng cường đáng kể quyền lực của tổng thống và bãi bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ đối với tổng thống và phó tổng thống. Kể từ ngày 7 tháng 12 năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc chỉ kiểm soát "khu vực tự do của Trung Hoa Dân Quốc", về cơ bản bao gồm Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ, Đông Sa và đảo Thái Bình, những vùng lãnh thổ không bị mất vào tay Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Nội chiến Trung Quốc.
Từ tháng 3 năm 1947 đến năm 1987, Đài Loan trong tình trạng thiết quân luật. Mặc dù hiến pháp quy định về các cuộc bầu cử dân chủ thường xuyên, nhưng các cuộc bầu cử này không được tổ chức tại Đài Loan cho đến những năm 1990. Năm 1954, Tư pháp Viện phán quyết rằng các đại biểu được bầu vào Quốc hội và Lập pháp Viện năm 1947 sẽ tiếp tục giữ chức cho đến khi các cuộc bầu cử mới có thể được tổ chức tại Trung Quốc đại lục, nơi đã nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 1949. Phán quyết tư pháp này cho phép Quốc dân đảng cai trị mà không bị thách thức tại Đài Loan cho đến những năm 1990. Vào những năm 1970, các cuộc bầu cử bổ sung bắt đầu được tổ chức cho Lập pháp Viện. Mặc dù các cuộc bầu cử này chỉ dành cho một số lượng ghế hạn chế, nhưng chúng đã cho phép chuyển đổi sang một hệ thống chính trị cởi mở hơn. Năm 1991, các thành viên này đã bị ra lệnh từ chức theo phán quyết tiếp theo của Tư pháp Viện.
Remove ads
Dân chủ hóa
Vào cuối những năm 1980, Hiến pháp phải đối mặt với quá trình dân chủ hóa ngày càng gia tăng ở Đài Loan cùng với số lượng đại biểu được bầu vào năm 1947 đã giảm dần. Trước những áp lực này, vào ngày 22 tháng 4 năm 1991, Quốc hội khóa I đã tự bỏ phiếu bãi nhiệm, bãi bỏ Điều khoản Tạm thời được thông qua năm 1948 và thông qua những sửa đổi quan trọng (được gọi là "Sửa đổi lần thứ nhất") cho phép bầu cử tự do.
Vào ngày 27 tháng 5 năm 1992, một số sửa đổi khác đã được thông qua (được gọi là "Sửa đổi lần thứ hai"), đáng chú ý nhất là việc cho phép bầu cử trực tiếp Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, Thống đốc Tỉnh Đài Loan và thị trưởng thành phố. Mười sửa đổi mới thay thế mười tám sửa đổi của Sửa đổi lần thứ nhất và lần thứ hai đã được thông qua vào ngày 28 tháng 7 năm 1994. Các sửa đổi được thông qua vào tháng 7 năm 1997 đã tinh giản Chính quyền Tỉnh Đài Loan và trao cho Lập pháp Viện quyền luận tội. Hiến pháp sau đó đã được sửa đổi vào năm 1999 và 2000, với bản sửa đổi trước đó bị Hội đồng Đại thẩm phán tuyên bố vô hiệu cùng năm. Một lần sửa đổi hiến pháp khác diễn ra vào năm 2005, giải tán Quốc hội, cải cách Lập pháp Viện và quy định việc phê chuẩn các sửa đổi hiến pháp trong tương lai thông qua trưng cầu dân ý.
Việc thông qua một sửa đổi hiến pháp của Đài Loan hiện nay đòi hỏi sự đồng thuận chính trị rộng rãi bất thường, bao gồm sự chấp thuận của ba phần tư số đại biểu của Viện Lập pháp. Số đại biểu này yêu cầu ít nhất ba phần tư tổng số đại biểu của Cơ quan Lập pháp. Sau khi được Cơ quan Lập pháp thông qua, các sửa đổi cần được phê chuẩn bởi ít nhất năm mươi phần trăm tất cả cử tri đủ điều kiện của Đài Loan, bất kể tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu.
Vì hiến pháp Đài Loan, ít nhất là trên danh nghĩa, là hiến pháp của toàn Trung Quốc, nên các sửa đổi đã tránh bất kỳ sự đề cập cụ thể nào đến khu vực Đài Loan và thay vào đó sử dụng thuật ngữ trung lập về mặt địa lý "Khu vực Tự do của Trung Hoa Dân Quốc" để chỉ tất cả các khu vực do Đài Loan kiểm soát. Tất cả các sửa đổi sau năm 1991 đều được duy trì như một phần riêng biệt của Hiến pháp, được hợp nhất thành một văn bản duy nhất gồm mười hai điều.
Remove ads
Các vấn đề
Tính chính danh

Những người ủng hộ Đài Loan độc lập đã đưa ra nhiều chỉ trích nhắm vào hiến pháp. Cho đến những năm 1990, khi Đảng Dân Tiến (DPP) cùng Quốc Dân Đảng (KMT) sửa đổi hiến pháp, văn kiện này vẫn bị những người ủng hộ độc lập coi là bất hợp pháp vì nó không được soạn thảo tại Đài Loan; hơn nữa, họ coi Đài Loan là lãnh thổ có chủ quyền của Nhật Bản cho đến khi được nhượng lại trong Hiệp ước Hòa bình San Francisco có hiệu lực vào ngày 28 tháng 4 năm 1952. Những người ủng hộ độc lập đã lập luận rằng Hiến pháp chưa bao giờ được áp dụng hợp pháp đối với Đài Loan vì Đài Loan không được chính thức sáp nhập vào lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc thông qua Quốc hội theo các thông số kỹ thuật của Điều 4. Mặc dù hiến pháp ban hành năm 1946 không xác định lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc, trong khi dự thảo hiến pháp năm 1925 liệt kê riêng các tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc và Đài Loan không nằm trong số đó, vì Đài Loan là một phần của Nhật Bản theo Hiệp ước Shimonoseki năm 1895. Hiến pháp cũng quy định trong Điều I.4 rằng "lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc là lãnh thổ ban đầu do nước này quản lý, trừ khi được Quốc hội cho phép, không thể thay đổi".
Năm 1946, Tôn Khoa, Thủ tướng Hành chính Viện Trung Hoa Dân Quốc, đã báo cáo với Quốc hội rằng "có hai loại thay đổi lãnh thổ: 1. từ bỏ lãnh thổ và 2. sáp nhập lãnh thổ mới. Ví dụ đầu tiên là việc Ngoại Mông Cổ độc lập, và ví dụ thứ hai là việc thu hồi Đài Loan. Cả hai đều là ví dụ về thay đổi lãnh thổ".[34] Kể từ năm 1946, chưa từng có bất kỳ sự sáp nhập chính thức nào của Quốc hội Trung Hoa Dân Quốc đối với các đảo Đài Loan theo đúng hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, mặc dù Điều 9 của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc quy định: "Việc sửa đổi chức năng, hoạt động và tổ chức của Chính quyền Tỉnh Đài Loan có thể được quy định bằng luật." Trung Hoa Dân Quốc lập luận rằng chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc đối với Đài Loan được thiết lập theo Văn kiện Đầu hàng của Nhật Bản, văn kiện này đã thực hiện Tuyên bố Potsdam và Tuyên bố Cairo. Các nước Đồng minh không đồng ý cũng không phản đối lập luận này. Ngoài ra, Đài Loan lập luận rằng Điều 4 của Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 vô hiệu hóa Hiệp ước Shimonoseki và việc chuyển giao chủ quyền ban đầu của Đài Loan từ Trung Quốc sang Nhật Bản. Vì Đài Loan đã bị kiểm soát vào năm 1945 trước khi ban hành hiến pháp năm 1947, chính phủ Đài Loan cho rằng một nghị quyết của Quốc hội là không cần thiết.
Mặc dù cả lý lẽ mang tính biểu tượng lẫn pháp lý đã được sử dụng để làm mất uy tín của việc áp dụng Hiến pháp tại Đài Loan, văn kiện này đã trở nên chính danh hơn trong số những người ủng hộ độc lập vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 nhờ quá trình dân chủ hóa, và hiện được tất cả các đảng phái lớn chấp nhận là luật cơ bản của Trung Hoa Dân Quốc, và được coi là Hiến pháp đại diện cho chủ quyền của Đài Loan. Tuy nhiên, có những đề xuất, đặc biệt là từ những người ủng hộ độc lập của Đài Loan và những người ủng hộ phong trào địa phương hóa Đài Loan, nhằm thay thế Hiến pháp hiện hành bằng một văn kiện do các khu vực bầu cử Đài Loan tại Đài Loan soạn thảo.
Trưng cầu dân ý và cải cách hiến pháp
Một tranh cãi gần đây liên quan đến hiến pháp là quyền trưng cầu dân ý được đề cập trong Hiến pháp. Hiến pháp quy định rằng "Việc thực hiện quyền chủ động và trưng cầu dân ý phải do luật định",[35] nhưng luật quy định các hoạt động này đã bị liên minh toàn đảng chặn lại phần lớn do nghi ngờ rằng những người đề xuất luật trưng cầu dân ý sẽ được sử dụng để lật đổ Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc và tạo ra một phương tiện để tuyên bố Đài Loan độc lập.[cần dẫn nguồn] Luật trưng cầu dân ý đã được thông qua vào ngày 27 tháng 11 năm 2003[36] và được Tổng thống Trần Thủy Biển ký vào ngày 31 tháng 12 năm 2003,[37] nhưng luật này đặt ra các tiêu chuẩn cao cho các cuộc trưng cầu dân ý, chẳng hạn như yêu cầu rằng chúng chỉ có thể được triệu tập bởi Tổng thống trong trường hợp sắp xảy ra tấn công.[37]
Năm 2003, Tổng thống Trần Thủy Biển đề xuất tổ chức trưng cầu dân ý vào năm 2006 để thực hiện một hiến pháp hoàn toàn mới vào ngày 20 tháng 5 năm 2008, trùng với lễ nhậm chức của tổng thống nhiệm kỳ thứ 12 của Trung Hoa Dân Quốc. Những người ủng hộ động thái như vậy, cụ thể là Liên minh Toàn Lục, lập luận rằng Hiến pháp hiện hành tán thành một hệ tư tưởng cụ thể (tức là Tam dân), chỉ phù hợp với các quốc gia Cộng sản; ngoài ra, họ lập luận rằng cần có một chính phủ "hiệu quả" hơn để đối phó với thực tế đang thay đổi.[cần dẫn nguồn] Một số người ủng hộ việc thay thế cấu trúc năm nhánh do Tam dân chủ vạch ra bằng một chính phủ ba nhánh. Những người khác trích dẫn sự bế tắc hiện tại giữa nhánh hành pháp và lập pháp và ủng hộ việc thay thế chế độ tổng thống bằng chế độ nghị viện. Hơn nữa, Hiến pháp hiện hành đã nêu rõ trước khi thực hiện các sửa đổi đối với Đài Loan, "Để đáp ứng các yêu cầu của quốc gia trước khi thống nhất...", hoàn toàn trái ngược với lập trường của phe Liên minh Toàn lục cây rằng Đài Loan phải tách khỏi Trung Quốc. Đáp lại, Liên minh phiến lam đã từ bỏ sự phản đối đối với các cuộc trưng cầu dân ý phi hiến pháp và đề nghị xem xét thông qua việc tiến hành cải cách hiến pháp.[cần dẫn nguồn]
Đề xuất thực hiện một hiến pháp hoàn toàn mới đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và sự lo ngại lớn từ Mỹ, cả hai đều lo ngại đề xuất viết lại hiến pháp là một nỗ lực trá hình nhằm giành độc lập cho Đài Loan, vì nó sẽ cắt đứt mối liên hệ lịch sử với Trung Quốc đại lục, và nhằm phá vỡ cam kết Bốn Không và Một Không có ban đầu của Trần Thủy Biển.[cần dẫn nguồn] Vào tháng 12 năm 2003, Hoa Kỳ tuyên bố phản đối bất kỳ cuộc trưng cầu dân ý nào có xu hướng đưa Đài Loan tiến tới "độc lập" chính thức, một tuyên bố được nhiều người coi là nhắm vào các đề xuất hiến pháp của Trần Thủy Biển.[cần dẫn nguồn]
Đáp lại, Liên minh Phiến-Lam đã cố gắng lập luận rằng một hiến pháp mới và các cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp là không cần thiết và những điểm yếu kém trong Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc có thể được chấp thuận thông qua quy trình lập pháp thông thường.[cần dẫn nguồn]
Trong diễn văn nhậm chức ngày 20 tháng 5 năm 2004, Trần Thủy Biển đã kêu gọi thành lập một "Ủy ban Cải cách Hiến pháp" gồm "các thành viên của đảng cầm quyền và các đảng đối lập, cũng như các chuyên gia pháp lý, học giả và đại diện từ mọi lĩnh vực và mọi tầng lớp xã hội" để quyết định những cải cách phù hợp. Ông hứa rằng hiến pháp mới sẽ không thay đổi vấn đề chủ quyền và lãnh thổ. Đề xuất này đã không đi đến đâu do thiếu sự hợp tác từ phe đối lập Phiến-Lam.[cần dẫn nguồn]
Chính phủ Quốc dân đảng nắm quyền từ năm 2008 đến năm 2016 đã dừng nỗ lực soạn thảo hiến pháp mới tại Đài Loan. Cựu Tổng thống Mã Anh Cửu tuyên bố rằng cải cách hiến pháp không phải là ưu tiên của chính phủ ông.[38]
Sau đó, Đài Loan một lần nữa được Đảng Dân Tiến cầm quyền, nhưng họ hứa sẽ duy trì nguyên trạng của Đài Loan,[39] và các sửa đổi hiến pháp do họ đề xuất đã không được thông qua.[40]
Remove ads
Xem thêm
- Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc
- Lịch sử Đài Loan
- Hiến pháp tạm thời Trung Hoa Dân Quốc
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads