Khổng Hữu Đức

From Wikipedia, the free encyclopedia

Remove ads

Khổng Hữu Đức (tiếng Trung: 孔有德; bính âm: Kǒng Yǒudé; tiếng Mãn: ᡴᡠᠩ
ᡳᡠᠣ
ᡩᡝ
; phiên âm: kung ioo de; ? – 7 tháng 8 năm 1652)[1] là võ tướng thời Minh mạt Thanh sơ, được phong tước Định Nam vương (定南王) của nhà Thanh. Về sau tử trận trong trận chiến ở Quế Lâm, thụy hiệu là Vũ Tráng (武壯).

Tiểu sử

Thân thế

Khổng Hữu Đức quê Vệ Cái Châu, Liêu Đông[a], nguyên quán Sơn Đông. Ông tự xưng là hậu duệ của Khổng Tử,[2] nhưng Trương Đồng Xưởng lại cho rằng việc Khổng Hữu Đức tự nhận là hậu duệ của Khổng Tử là một sự sỉ nhục đối với Khổng Tử.[3] Còn những người trong tộc họ Khổng đã đóng cổng không cho Khổng Hữu Đức vào khi ông ta định bái yết Khổng MiếuKhổng Lâm, đồng thời mắng chửi ông là kẻ mạo nhận hậu duệ của Khổng Tử.[4][5]

Binh nghiệp

Cuối thời nhà Minh, ông giữ chức Tham tướng.[b] Vốn xuất thân là phu mỏ, từng làm hải tặc ở Liêu Đông, sau đó đầu quân cho Mao Văn Long. Ông cùng với Thượng Khả HỷCảnh Trọng Minh được gọi là "Tam phu mỏ Sơn Đông".[6] Khổng Hữu Đức là người không biết chữ, nhưng lại giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Ông thường dẫn đầu xông pha trận mạc, dũng mãnh, kiên cường, dũng khí đứng đầu ba quân. Khổng Hữu Đức và Cảnh Trọng Minh có mối quan hệ thân thiết, một số nguồn sử liệu cho rằng họ là anh em kết nghĩa. Cả hai đã rời đi, đến Đăng Châu phụng sự dưới quyền Tuần phủ Sơn Đông Tôn Nguyên Hóa.[7] Trong thời gian làm việc tại Đăng Châu, cả hai người bọn họ nằm trong số những viên tướng học cách sử dụng các loại pháo kiểu châu Âu mới mà Tôn Nguyên Hóa đã có được từ Ma Cao.[8]

Binh biến Ngô Kiều

Tháng 8 năm Sùng Trinh thứ 4 (1631), Hoàng Thái Cực dẫn quân Hậu Kim tấn công thành Đại Lăng Hà[c], Tổ Đại Thọ bị vây khốn trong thành. Tôn Nguyên Hóa gấp rút ra lệnh cho Khổng Hữu Đức dẫn 800 kỵ binh đến chi viện. Tuy nhiên, binh lính Liêu Đông ở Đăng Châu và binh lính Sơn Đông vốn không hòa thuận, khi Khổng Hữu Đức đến Ngô Kiều, gặp phải mưa lớn và tuyết rơi, lương thực không đủ, binh lính đã cướp bóc và làm loạn. Khổng Hữu Đức đã phát động binh biến Ngô Kiều tại Đăng Châu, tự xưng là Đô Nguyên soái, hợp tác với Cảnh Trọng Minh, đồng thời đoạt lấy những khẩu đại pháo phương Tây. Trong số những người thương vong trong trận chiến có một vài chuyên gia pháo binh người Bồ Đào Nha từ Ma Cao đã giúp huấn luyện binh lính nhà Minh.Tôn Nguyên Hóa trung thành với triều đình, không muốn xưng vương, Khổng Hữu Đức đã thả ông ta trốn thoát khỏi Đăng Châu nhưng sau đó đã bị xử tử vì tội đào ngũ khi vừa đặt chân đến kinh thành.[9][10] Sau khi triều đình nhà Minh phái binh trấn áp, Khổng Hữu Đức đã đầu hàng Hậu Kim.

Quy thuận nhà Thanh

Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), ông được phong tước Cung Thuận vương, tham gia các cuộc chinh phạt ở Triều Tiên, Cẩm Châu, Tùng Sơn và nhiều nơi khác. Sau khi nhập quan[d], ông theo Đa Đạc truy lùng lực lượng vũ trang của nhà Minh và đàn áp các cuộc kháng chiến chống Thanh ở nhiều nơi tại Giang Nam. Năm Thuận Trị thứ 3 (1646), ông được phong Bình Nam Đại tướng quân để tấn công chính quyền Vĩnh Lịch Đế của Nam Minh. Năm Thuận Trị thứ 4 (1650), ông cùng quân Thanh phá được Quế Lâm, bắt giữ Trương Đồng Xưởng, Cù Thức Tứ và Tĩnh Giang vương Chu Hanh Ngân. Cù Thức Tứ và Trương Đồng Xưởng bị hành hình dưới chân núi Tiên Hạc ở Phong Động Sơn, Quế Lâm. Tĩnh Giang vương Chu Hanh Ngân bị thắt cổ chết trong một ngôi nhà dân ở ngoài cửa Tây.

Năm Thuận Trị thứ 5, ông được đổi phong là Định Nam vương, tiếp tục xuất chinh Quảng Tây. Năm Thuận Trị thứ 9, Tây Ninh vương Lý Định Quốc dẫn quân Đông lộ tái chiếm phần lớn Hồ Nam, sau đó tiến xuống phía nam Quảng Tây, thẳng tiến đến Quế Lâm. Định Nam vương Khổng Hữu Đức đích thân dẫn quân đến Nghiêm Quan ở huyện Hưng An để cố thủ, dựa vào địa thế hiểm yếu để chống cự. Tuy nhiên, quân Minh đã dùng voi trận đánh tan tác quân Thanh, giành thắng lợi trong trận đại chiến Nghiêm Quan. Khổng Hữu Đức nhục nhã phải bỏ chạy về Quế Lâm, hạ lệnh đóng chặt cổng thành, cả ngày lo sợ bất an. Ngày mùng 1 tháng 7, Khổng Hữu Đức lại thua trận như sử sách mô tả: "Binh chưa giao mà voi trận đã dàn ra phía trước, lính tinh nhuệ đông như núi, cát bụi che lấp mặt trời, ngựa nghe tiếng voi hí đều ngã lăn, quân Hữu Đức bèn chạy trốn, bị truy sát thảm bại". Chỉ một mình Khổng Hữu Đức chạy thoát, quân Đại Tây bao vây Quế Lâm.

Ngày mùng 4 tháng 7, Lý Định Quốc dẫn quân Minh công phá cửa Võ Thắng, quân Thanh không thể chống cự, toàn tuyến tan vỡ. Khổng Hữu Đức trúng tên vào trán, biết chắc mình sẽ chết, bèn "tập hợp bảo vật vào một phòng, tự tay giết người thiếp yêu, rồi đóng cửa, tự thiêu mà chết". Các hàng thần của nhà Minh là Nguyên Khánh Quốc công Trần Bang Phó, Tuần án Quảng Tây của nhà Thanh là Vương Thuyên Khả, và quyền Bố chính sứ Trương Tinh Quang đều bị bắt sống (sau đó Tần vương Tôn Khả Vọng đã lột da cha con Trần Bang Phó, còn Vương Thuyên Khả và Trương Tinh Quang bị xử chém), vợ ông là Bạch thị tự treo cổ. Duy chỉ có con gái của Hữu Đức là Khổng Tứ Trinh trốn thoát. Quân Nam Minh đã giành được thắng lợi trong trận đại chiến Quế Lâm. Theo tác phẩm của Wakeman, Khổng Hữu Đức được chôn cất bên ngoài cổng Trạm Nghĩa ở Bắc Kinh.[11] Nhưng không rõ Wakeman đã giới thiệu chính xác cổng Trạm Nghĩa là gì, và trên thực tế, thi thể của Khổng Hữu Đức được chôn bên ngoài Phủ Thành Môn ở Bắc Kinh.

Sau khi nghe tin, Cố Viêm Vũ đã làm một bài thơ có câu: "Hai mươi năm giặc Ngô Kiều, nay nằm dưới búa rìu, uy thế quốc gia chấn động, thế binh đã tới gần, Trương Sở ba quân lệnh, Tôn Chu bốn biển lòng, thư sinh lo chiến lược, lệ tràn đẫm mi sâu."[12]

Sau khi qua đời

Thuận Trị Đế đã truy phong cho Khổng Hữu Đức thụy hiệu là Vũ Tráng. Vì thi thể của Khổng Hữu Đức đã bị Lý Định Quốc thiêu thành tro và rải đi, nên triều đình nhà Thanh đã xây nghi quan trủng[e] cho ông. Con trai của Khổng Hữu Đức là Khổng Đình Huấn cũng bị Lý Định Quốc xử trảm vài năm sau đó,[13] triều đình đã phá lệ chôn cất trọng thể. Người con gái duy nhất còn sống sót là Khổng Tứ Trinh thì được Hiếu Trang Văn Hoàng hậu nhận làm con nuôi.

Remove ads

Chú thích

  1. Tham tướng là chức quan võ cấp trung trong hệ thống quân đội thời phong kiến ở Trung Quốc. Chức vụ này có nhiệm vụ trợ giúp hoặc chỉ huy một đạo quân, thường đứng sau các chức vụ cao hơn như Tổng binh hoặc Đô đốc.
  2. Nay là Cẩm Huyện, Liêu Ninh.
  3. Nhập quan dùng để chỉ sự kiện quân Thanh tiến vào vùng đất của nhà Minh thông qua Sơn Hải Quan vào năm 1644, sau khi Ngô Tam Quế mở cửa ải đầu hàng.
  4. Ý chỉ loại mộ chôn quần áo và mũ.
Remove ads

Tham khảo

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads