Khổng Tứ Trinh

From Wikipedia, the free encyclopedia

Remove ads

Khổng Tứ Trinh (chữ Hán: 孔四貞; 1635 – ?)[1] là con gái của Định Nam vương Khổng Hữu Đức và là công chúa đầu thời Thanh.[2]

Tiểu sử

Thân thế ban đầu

Hồi còn nhỏ, Khổng Tứ Trinh từng là con nuôi của Ngô Tam Quế. Năm Thuận Trị thứ 9 (1652), tướng Nam MinhLý Định Quốc bất ngờ tấn công Quảng Tây, chiếm được Quế Lâm. Định Nam vương Khổng Hữu Đức sau khi lệnh cho vợ con tự thiêu, đã thắt cổ tự vẫn.[1][3] Theo ghi chép của Dương Lục Vinh trong sách Tam Phiên kỷ sự bản mạt thời Thanh: "Chỉ có một người con gái (tức Khổng Tứ Trinh) khi đó 17 tuổi, đã trốn thoát khỏi thành, một mình cưỡi ngựa chạy về kinh thành, khóc lóc trước triều đình. Thế Tổ (Thuận Trị Đế) thương xót nên đã nuôi dưỡng cô trong cung." Sau khi đến Bắc Kinh, Khổng Tứ Trinh được phong làm "Hòa Thạc cách cách", tương đương với tước vị Quận chúa.[a] Vì còn nhỏ tuổi nên bà được Hiếu Trang Văn Hoàng hậu nuôi dưỡng trong cung. Bà còn được ban thưởng vạn lạng bạc trắng, bổng lộc hàng năm tương đương với Quận chúa.[4] Ngoài ra, vì là người thừa kế duy nhất còn sống, bà còn được giao quyền chỉ huy trên danh nghĩa đối với đội quân còn sót lại của cha mình ở Quảng Tây.[5]

Sự kiện sách phong

Tháng 4 năm Thuận Trị thứ 13 (1656), Thượng thư Bộ Lễ là Ân Cách Đức cùng các quan tấu lên rằng, việc sách phong Trung Cung (Hoàng hậu) đã tiến hành theo lệ, và các cung điện như Càn Thanh, Khôn Ninh, Cảnh Nhân sắp hoàn thành, không thể để trống lâu. Vì vậy, nên sách phong các phi tần, nhưng bị hoàng đế nghiêm khắc quở trách. Đến tháng 6, Bộ Lễ nhận được thánh chỉ: “Nay trước tiên sách lập Đông Tây nhị cung Hoàng phi, những việc cần làm, Bộ các ngươi hãy lập tức dựa theo tiền lệ mà bàn bạc, rồi tấu lên. Các việc khác đợi lệnh sau.” Cùng tháng đó, Thuận Trị Đế ban dụ cho Bộ Lễ, rằng nhận được dụ của Thánh Mẫu Hoàng Thái hậu (Hiếu Trang Văn Hoàng hậu): “Con gái của Định Nam Vũ Tráng vương, Khổng thị, là dòng dõi trung thần, nết na đoan trang, xứng đáng làm khuôn mẫu cho hậu cung, nên lập làm Đông Cung Hoàng phi. Bộ các ngươi hãy lập tức chuẩn bị nghi vật theo lệ, đợi chỉ để tiến hành lễ sách phong.” Đến tháng 7, Bộ Lễ đã chọn ngày lành là ngày 19 tháng 8 để sách phong phi, nhưng Thuận Trị Đế lấy lý do Hòa Thạc Tương Thân vương vừa qua đời, không nỡ tiến hành, nên đã ra lệnh dời ngày sang sau tháng 8.[6]

Tháng 8, Giám sát Ngự sử đạo Giang Nam Du Đạc lấy lý do “hai cung sắp được sách lập” làm một trong những lý do, dâng tấu xin tạm dừng các cuộc tử hình vào mùa thu cả trong và ngoài kinh thành, để thể hiện lòng nhân đức của hoàng đế. Ngày 22 tháng 9 cùng năm, sứ thần Triều TiênInp'yŏng Đại quân I Hwon đến kinh, phát hiện “các phủ châu quanh kinh thành đang tuyển chọn phụ nữ từ các gia đình lương dân để lấp đầy hậu cung, với chỉ tiêu ba ngàn người, được phân bổ theo số lượng.” Ngày 27 tháng 9, văn bản dự thảo sách lập Khổng thị đã được hoàn thành. Văn bản này ca ngợi Khổng thị “là con gái của Định Nam vương Khổng Hữu Đức, có phẩm hạnh đoan trang, tính nết hiền lành, hiếu thảo, phụng sự theo lời dạy của tổ tiên, tận tụy phò tá, giúp đỡ chốn cung đình, xứng đáng trở thành tấm gương hiếu thuận”.

Ngày 19 tháng 10, Kim Nhữ Huy tiết lộ với I Hwon: “Hoàng hậu Đông Cung, ngày mai sẽ được sách phong là một vị quý phi góa bụa.” “Hoàng hậu Tây Cung, con gái của Khổng Hữu Đức đã được chọn và ở riêng một cung khác. Con gái của Hàn lâm Thạch Thân được tuyển vào cuối mùa thu, được sủng ái nhất hậu cung, nhưng rốt cuộc ai sẽ được lập làm Hoàng hậu thì chưa biết.” Tuy nhiên, việc sách phong Khổng Tứ Trinh sau đó đã bị bỏ ngỏ, không hề được tiến hành. Có nguồn cho rằng lý do là Thuận Trị Đế “biết bà đã được hứa gả cho Tôn Diên Linh, nên dừng lại.”[7]

Kết hôn với Tôn Diên Linh

Năm Thuận Trị thứ 17 (1660), Khổng Tứ Trinh kết hôn với Tôn Diên Linh, về sau được bổ nhiệm làm Đề đốc Quảng Tây, thay thế vai trò trên danh nghĩa của bà. Cha của Tôn Diên Linh từng là một trong những phó tướng dưới quyền Khổng Hữu Đức. Nhờ địa vị cao quý của Khổng Tứ Trinh, địa vị của chồng bà cũng được nâng lên. Chức vụ Đề đốc của ông thực chất là một vị trí vốn dĩ thuộc về bà. Mặc dù là Đề đốc nắm quyền chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Tây, Tôn Diên Linh dường như không mấy tài năng hoặc có xu hướng lạm quyền, dẫn đến việc ông nhiều lần bị triều đình khiển trách.

Khổng Tứ Trinh vốn xuất thân từ gia đình võ tướng, từng theo cha trong quân ngũ, nên tính cách cương trực, quyết liệt. Sau khi thành hôn, bà tỏ ra kiêu căng, ngạo mạn trước mặt chồng. Tuy nhiên, Tôn Diên Linh là người có tâm cơ sâu sắc, ban đầu luôn tỏ ra hết mực cung kính với Khổng Tứ Trinh. Vì thế, bà đã hết lòng giúp ông vận động trong cung, khiến ông được triều đình sủng ái. Năm Khang Hi thứ 4 (1665), Tôn Diên Linh xúi giục Khổng Tứ Trinh thỉnh cầu triều đình cho phép họ "đến Quảng Tây nhận bổng lộc". Hoàng đế đã chuẩn tấu. Sau đó, vợ chồng họ cùng cả gia đình đi về phương Nam. Tôn Diên Linh dần dần tìm cách xa lánh và chèn ép Khổng Tứ Trinh, khiến tình cảm vợ chồng ngày càng xấu đi.

Loạn Tam Phiên và cuối đời

Năm Khang Hi thứ 12 (1673), Loạn Tam Phiên bùng nổ, Ngô Tam Quế khởi binh chống Thanh, đồng thời dụ dỗ Tôn Diên Linh cùng hưởng ứng. Lúc này, Khổng Tứ Trinh vô cùng hối hận, bà "ngày đêm cảm kích ân đức của hoàng thượng, khuyên Tôn Diên Linh quy thuận." Tôn Diên Linh do dự, không quyết đoán. Sau đó, Ngô Tam Quế phái Ngô Thế Tông bất ngờ tấn công và giết chết Tôn Diên Linh. Con trai duy nhất của Khổng Tứ Trinh cũng bị Ngô Thế Tông sát hại.

Sau đó, Ngô Tam Quế đón Khổng Tứ Trinh về Vân Nam, nhằm lôi kéo các cựu thuộc hạ của Định Nam vương, nhưng thực tế là giam lỏng bà. Khổng Tứ Trinh ở lại Côn Minh tám năm, cho đến khi Loạn Tam phiên được dẹp yên, bà mới vất vả trở về kinh thành. Cuộc đời về sau của bà vô cùng bi thảm. Nhà sử học Mạnh Sâm đã nhận xét rằng bà "từ đó trở thành một kẻ cô độc, chẳng qua chỉ là một bà góa già họ Tôn, không còn ai tranh giành sự coi trọng nữa." Có truyền thuyết kể rằng sau khi qua đời, bà được chôn cất ở Mộ Công chúa tại Bắc Kinh ngày nay, và địa danh này có tên từ đó. Tuy nhiên, các khảo cứu đã chứng minh rằng truyền thuyết này không có thật.

Remove ads

Chú thích

  1. Theo chế độ nhà Thanh: con gái của Hoàng hậu được phong là Cố Luân công chúa; con gái của Phi tần và con gái nuôi của Hoàng hậu đều được phong là Hòa Thạc công chúa; con gái chính thất của Thân vương được phong là Hòa Thạc cách cách, tức là Quận chúa; con gái chính thất của Quận vương được phong là Đa La cách cách, tức là Huyện chúa... Việc phân biệt rõ ràng giữa Hòa Thạc công chúaHòa Thạc cách cách cho thấy Cách cách không nhất thiết tương đương với Công chúa.
Remove ads

Tham khảo

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads