Napoléon III
Tổng thống đầu tiên của Pháp (1848–1852) From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Napoléon III hay Napoléon Đệ tam, cũng được biết như Louis-Napoléon Bonaparte (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa Pháp và hoàng đế duy nhất của Đệ Nhị Đế chế Pháp. Napoléon III nắm quyền một cách khác thường, vừa là tổng thống danh nghĩa đầu tiên của Pháp, vừa là vị vua cuối cùng của Pháp.
Napoleon III sinh ra vào thời kỳ đỉnh cao của Đệ Nhất Đế chế Pháp tại Cung điện Tuileries ở Paris, là con trai của Louis Bonaparte, Vua của Vương quốc Holland (cai trị 1806–1810), và Hortense de Beauharnais, và gọi Hoàng đế Napoleon I là bác. Chỉ hai tháng sau khi sinh, theo chính sách đặt tên triều đại của Napoleon I, ông mới được ban cho cái tên Charles-Louis Napoleon,[1] tuy nhiên, ngay sau đó, Charles đã bị xóa khỏi tên của ông. Louis Napoleon Bonaparte là tổng thống đầu tiên và duy nhất của Đệ Nhị Cộng hòa Pháp, được bầu vào năm 1848. Ông đã giành chính quyền bằng vũ lực vào năm 1851 khi không thể tái đắc cử theo hiến pháp. Sau đó, ông tự xưng là Hoàng đế của nước Pháp và thành lập ra Đệ Nhị Đế chế Pháp, trị vì cho đến khi Quân đội Pháp bị đánh bại và bị Phổ cùng các đồng minh bắt giữ trong Trận Sedan năm 1870.
Napoleon III là một vị vua được lòng dân, người đã giám sát quá trình hiện đại hóa nền kinh tế Pháp và lấp đầy Paris bằng những đại lộ và công viên mới. Ông đã mở rộng đế chế thực dân Pháp, đưa hải quân thương mại Pháp trở thành lực lượng lớn thứ hai thế giới, và đích thân tham gia hai cuộc chiến tranh. Giữ vững quyền lãnh đạo trong 22 năm, ông là nguyên thủ Pháp trị vì lâu nhất kể từ khi Ancien Régime sụp đổ, mặc dù triều đại của ông cuối cùng đã kết thúc khi ông đầu hàng Otto von Bismarck và Hoàng đế Wilhelm I vào ngày 2 tháng 9 năm 1870.
Napoleon III đã chỉ thị một cuộc tái thiết Paris quy mô lớn do Tỉnh trưởng Seine, Georges-Eugène Haussmann, thực hiện. Ông đã mở rộng và củng cố hệ thống đường sắt trên toàn quốc và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng. Napoleon thúc đẩy việc xây dựng Kênh đào Suez và thiết lập nền nông nghiệp hiện đại, chấm dứt nạn đói ở Pháp và đưa đất nước trở thành một nước xuất khẩu nông sản. Ông đã đàm phán Hiệp ước Cobden-Chevalier năm 1860 với Anh và các thỏa thuận tương tự với các đối tác thương mại châu Âu khác của Pháp. Các cải cách xã hội bao gồm việc trao cho công nhân Pháp quyền đình công và quyền tổ chức, và quyền cho phụ nữ được nhận vào một trường đại học Pháp.
Về chính sách đối ngoại, Napoleon III đặt mục tiêu tái khẳng định ảnh hưởng của Pháp ở châu Âu và trên toàn thế giới. Tại châu Âu, ông liên minh với Anh và đánh bại Nga trong Chiến tranh Krym (1853–1856). Chế độ của ông đã hỗ trợ thống nhất Bán đảo Ý bằng cách đánh bại Đế quốc Áo trong Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai và sau đó sáp nhập Savoy và Nice thông qua Hiệp ước Turin (1860) như một phần thưởng hoãn lại. Đồng thời, lực lượng của ông đã bảo vệ Lãnh địa Giáo hoàng khỏi sự thôn tính của Ý. Ông cũng ủng hộ việc hợp nhất các các thân vương quốc Danube năm 1859, dẫn đến việc thành lập các Thân vương quốc Liên hiệp Moldavia và Wallachia. Napoleon đã tăng gấp đôi diện tích của đế chế thực dân Pháp với các cuộc bành trướng ở châu Á, Thái Bình Dương và châu Phi. Mặt khác, cuộc can thiệp vào Mexico, nhằm mục đích thành lập Đệ Nhị Đế chế México dưới sự bảo hộ của Pháp, đã kết thúc trong thất bại hoàn toàn.
Từ năm 1866, Napoleon phải đối mặt với sức mạnh ngày càng tăng của Vương quốc Phổ khi thủ tướng Otto von Bismarck tìm cách thống nhất nước Đức dưới sự lãnh đạo của Phổ. Tháng 7 năm 1870, Napoleon miễn cưỡng tuyên chiến với Phổ trước áp lực của công chúng. Quân đội Pháp nhanh chóng bị đánh bại, và Napoleon bị bắt tại Sedan. Ông nhanh chóng bị truất ngôi và Đệ Tam Cộng hòa được tuyên bố thành lập tại Paris. Sau khi được thả khỏi sự giam giữ của Phổ, ông lưu vong sang Anh và qua đời tại đây vào năm 1873.
Remove ads
Tuổi thơ và gia đình
Cuộc sống đầu đời

Charles-Louis Napoleon Bonaparte, sau này được gọi là Louis Napoleon và sau đó là Napoleon III, sinh ra tại Paris vào đêm ngày 19 rạng sáng ngày 20 tháng 4 năm 1808. Cha ông là Louis Napoléon Bonaparte, em trai của Napoleon Bonaparte, người đã đưa Louis lên làm Vua của Holland từ năm 1806 đến năm 1810. Mẹ ông là Hortense de Beauharnais, con gái riêng duy nhất của vợ Napoleon là Joséphine de Beauharnais với người chồng đầu tiên là Alexandre de Beauharnais. Ông là Vương tử Bonaparte đầu tiên được sinh ra sau khi Đệ Nhất Đế chế Pháp được tuyên bố hình thành.[2]
Với tư cách là hoàng hậu, Joséphine đã đề xuất hôn nhân giữa Louis và Hortense như một cách để sinh ra người thừa kế cho Hoàng đế, và được Hoàng đế đồng ý, vì lúc đó Joséphine đã vô sinh.[3] Louis và Hortense có mối quan hệ không mấy tốt đẹp và chỉ sống chung với nhau trong một thời gian ngắn. Con trai đầu lòng của họ là Napoléon-Charles Bonaparte, qua đời năm 1807 và—mặc dù đã ly thân và có một người con trai thứ hai khỏe mạnh là Napoléon Louis Bonaparte—họ vẫn quyết định sinh thêm đứa con thứ ba. Hai người nối lại cuộc hôn nhân trong một thời gian ngắn tại Toulouse, bắt đầu từ ngày 12 tháng 8 năm 1807 và Louis Napoleon chào đời sớm hơn dự kiến (ít nhất) ba tuần so với chín tháng. Hortense được biết là có người tình và những kẻ thù của Louis Bonaparte, bao gồm cả Victor Hugo, đã lan truyền tin đồn rằng ông là con của một người đàn ông khác, nhưng hầu hết các nhà sử học ngày nay đều đồng ý rằng ông là con trai hợp pháp của Louis Napoléon Bonaparte, vua của Holland.[4][5][6]
Louis Napoleon được rửa tội tại Cung điện Fontainebleau vào ngày 5 tháng 11 năm 1810, với Hoàng đế Napoleon làm cha đỡ đầu và Hoàng hậu Marie-Louise làm mẹ đỡ đầu. Cha ông không còn ở bên cạnh, một lần nữa xa cách Hortense. Năm lên 7 tuổi, Louis Napoleon đến thăm bác mình tại Cung điện Tuileries ở Paris. Hoàng đế Napoleon I bế cậu lên cửa sổ để nhìn những người lính diễu hành ở Quảng trường Carrousel bên dưới. Louis Napoleon gặp bác mình lần cuối cùng cùng gia đình tại Château de Malmaison, ngay trước khi Napoleon lên đường tham gia Trận Waterloo.[7]
Tất cả các thành viên của Nhà Bonaparte đều bị buộc phải lưu vong sau thất bại của Hoàng đế Napoleon tại Trận Waterloo và Bourbon phục hoàng. Hortense và Louis Napoleon chuyển từ Aix-les-Bains đến Bern, rồi Baden-Baden, và cuối cùng đến một ngôi nhà ven hồ ở Arenenberg thuộc bang Thurgau của Thụy Sĩ. Ông được học một phần ở Đức tại trường trung học ở Augsburg, Vương quốc Bayern. Kết quả là, trong suốt quãng đời còn lại, tiếng Pháp của ông có một chút giọng Đức nhưng dễ nhận thấy. Gia sư ở nhà của ông là Philippe Le Bas, một người theo chủ nghĩa cộng hòa nhiệt thành và là con trai của một nhà cách mạng và là bạn thân của Robespierre. Le Bas đã dạy ông lịch sử Pháp và chính trị cấp tiến.[8]
Nhà cách mạng lãng mạn (1823–1835)
Khi Louis Napoleon 15 tuổi, mẹ ông là Hortense chuyển đến Rome, nơi gia đình Bonaparte có một biệt thự. Ông dành thời gian học tiếng Ý, khám phá những tàn tích cổ đại và học nghệ thuật lãng mạn và có ở đây các mối tình tuổi thiếu niên, những điều mà ông thường sử dụng trong cuộc sống sau này. Ông kết bạn với Đại sứ Pháp, François-René de Chateaubriand, cha đẻ của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp, người mà ông vẫn giữ liên lạc trong nhiều năm. Ông đoàn tụ với anh trai mình là Napoléon-Louis; cùng nhau họ tham gia Carbonari, các hội cách mạng bí mật chống lại sự thống trị của Đế quốc Áo đối với miền Bắc Ý. Vào mùa xuân năm 1831, khi Louis Napoleon 23 tuổi, chính phủ Áo và Giáo hoàng đã phát động một cuộc tấn công chống lại Carbonari. Hai anh em bị cảnh sát truy nã, buộc phải chạy trốn. Trong cuộc chạy trốn, Napoléon-Louis mắc bệnh sởi. Ông qua đời trong vòng tay em trai mình vào ngày 17 tháng 3 năm 1831.[9] Hortense và Louis Napoleon đã trốn tránh cảnh sát và quân đội Áo, cuối cùng đã đến được biên giới Pháp.[10]
Hortense và Louis Napoleon bí mật đến Paris, nơi chế độ cũ của Vua Charles X vừa sụp đổ sau Cách mạng Tháng Bảy và được thay thế bằng chế độ tự do hơn của Louis Philippe I, vị vua duy nhất của Quân chủ Tháng Bảy. Họ đến Paris vào ngày 23 tháng 4 năm 1831 và cư trú dưới tên "Hamilton" tại Hotel du Holland trên Quảng trường Vendôme. Hortense đã viết đơn thỉnh cầu lên Vua Pháp, xin được ở lại Pháp, và Louis Napoleon đã đề nghị tình nguyện làm lính thường trong Quân đội Pháp. Vị vua mới đồng ý gặp Hortense một cách bí mật; Louis Napoleon bị sốt và không tham gia cùng họ. Cuối cùng, nhà vua đồng ý cho Hortense và Louis Napoleon ở lại Paris miễn là thời gian lưu trú của họ ngắn và bí mật. Louis Napoleon được thông báo rằng ông có thể gia nhập Quân đội Pháp nếu ông chịu đổi tên, nhưng ông đã từ chối một cách phẫn nộ. Hortense và Louis Napoleon ở lại Paris cho đến ngày 5 tháng 5, đúng ngày kỷ niệm 15 ngày mất của Napoleon. Sự hiện diện của Hortense và Louis Napoleon tại khách sạn đã được biết đến, và một cuộc biểu tình công khai để tưởng nhớ Hoàng đế đã diễn ra tại Quảng trường Vendôme, ngay trước khách sạn của họ. Cùng ngày hôm đó, Hortense và Louis Napoleon được lệnh rời khỏi Paris. Trong thời gian ngắn ngủi ở Paris, Louis Napoleon tin chắc rằng tình cảm của người dân và quân đội Pháp dành cho Bonaparte vẫn còn mạnh mẽ.[2] Họ đến Anh một thời gian ngắn, rồi lại lưu vong ở Thụy Sĩ.[11]
Remove ads
Những năm đầu trưởng thành
Sự kế vị Bonaparte và chủ nghĩa Bonaparte
Kể từ khi đế chế của người bác Napoleon sụp đổ năm 1815, một phong trào Bonaparte đã tồn tại ở Pháp, với hy vọng đưa một người mang họ Bonaparte trở lại ngai vàng Pháp. Theo luật kế vị do Napoleon I thiết lập, quyền kế vị đầu tiên được truyền cho chính con trai ông, được cha mình tuyên bố là "Vua của Rome" ngay từ khi sinh ra. Người thừa kế này, được những người theo chủ nghĩa Bonaparte gọi là Napoléon II, đang sống trong cảnh giam lỏng tại triều đình Viên với tước hiệu Công tước xứ Reichstadt. Người kế vị tiếp theo là bác cả của Louis Napoleon, Joseph Bonaparte, tiếp theo là cha của ông, nhưng cả Joseph lẫn cha của ông đều không muốn quay trở lại đời sống chính trị. Khi Công tước xứ Reichstadt qua đời vào năm 1832, Louis Napoleon trở thành người thừa kế trên thực tế của triều đại và là người lãnh đạo phe Bonaparte.[12]
Lưu vong cùng mẹ ở Thụy Sĩ, Louis Napoleon gia nhập Quân đội Thụy Sĩ, được đào tạo để trở thành sĩ quan và viết một cuốn cẩm nang về pháo binh (bác của ông, Napoleon, đã trở nên nổi tiếng với tư cách là một sĩ quan pháo binh). Louis Napoleon cũng bắt đầu viết về triết lý chính trị của mình—như nhà sử học người Anh đầu thế kỷ XX H. A. L. Fisher đã nhận định, "chương trình của Đế chế không phải là sự ứng biến của một kẻ phiêu lưu tầm thường" mà là kết quả của sự suy ngẫm sâu sắc về triết lý chính trị của Napoleon và cách điều chỉnh nó cho phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước đã thay đổi.[13] Ngay từ năm 1832, ông đã trình bày một sự hòa giải giữa chủ nghĩa Bonaparte và chủ nghĩa cộng hòa thông qua nguyên tắc chủ quyền nhân dân. Ông tin rằng một hoàng đế hùng mạnh tồn tại để thực thi ý chí của nhân dân.[2] Ông xuất bản Rêveries politiques hay "những giấc mơ chính trị" vào năm 1833 ở tuổi 25, tiếp theo là Considérations politiques et militaires sur la Suisse ("Những cân nhắc chính trị và quân sự về Thụy Sĩ") vào năm 1834, tiếp theo là Les Idées napoléoniennes ("Những ý tưởng của Napoleon") vào năm 1839, một tuyển tập các ý tưởng chính trị của ông, được xuất bản thành ba phiên bản và cuối cùng được dịch sang 6 ngôn ngữ. Ông xây dựng học thuyết của mình dựa trên hai ý tưởng: phổ thông đầu phiếu và đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Ông kêu gọi một "chế độ quân chủ mang lại lợi ích cho nền Cộng hòa mà không gây ra bất tiện", một chế độ "mạnh mẽ mà không chuyên chế, tự do mà không hỗn loạn, độc lập mà không bị chinh phục".[14] Ông cũng dự định xây dựng một cộng đồng các quốc gia châu Âu rộng lớn hơn.[2]
Đảo chính thất bại, lưu vong ở London (1836–1840)
"Ta tin", Louis Napoleon viết, "rằng thỉnh thoảng, có những người được tạo ra mà ta gọi là những người tình nguyện của sự quan phòng, những người nắm giữ vận mệnh của đất nước. Ta tin ta là một trong số những người đó. Nếu ta sai, ta có thể chết một cách vô ích. Nếu ta đúng, thì sự quan phòng sẽ đặt ta vào vị thế để hoàn thành sứ mệnh của mình."[15] Ông đã chứng kiến sự nhiệt tình của dân chúng dành cho Napoléon Bonaparte khi ông ở Paris, và ông tin chắc rằng, nếu ông hành quân đến Paris, như Napoléon Bonaparte đã làm vào năm 1815 trong thời kỳ Một Trăm Ngày, nước Pháp sẽ nổi dậy và sát cánh cùng ông. Ông bắt đầu lên kế hoạch đảo chính chống lại Vua Louis-Philippe I của Pháp.[16]

Ông lên kế hoạch cho cuộc nổi dậy của mình bắt đầu ở Strasbourg. Một đại tá của một trung đoàn đã đồng ý tham gia. Ngày 29 tháng 10 năm 1836, Louis Napoleon đến Strasbourg, trong quân phục của một sĩ quan pháo binh; ông tập hợp trung đoàn về phía mình. Quận lỵ bị chiếm giữ, và viên thị trưởng bị bắt. Thật không may cho Louis-Napoleon, vị tướng chỉ huy quân đồn trú đã trốn thoát và triệu tập một trung đoàn trung thành, bao vây những kẻ nổi loạn. Những kẻ nổi loạn đầu hàng và Louis-Napoleon chạy trốn trở về Thụy Sĩ.[17]
Louis Napoleon rất được yêu mến khi lưu vong và sự yêu mến của ông ở Pháp liên tục tăng lên sau cuộc đảo chính bất thành năm 1836, khi nó đưa ông trở thành người thừa kế huyền thoại của Bonaparte và tăng cường sự công khai của ông.[2]
Vua Louis Philippe đã yêu cầu chính phủ Thụy Sĩ dẫn độ Louis Napoleon về Pháp, nhưng người Thụy Sĩ chỉ ra rằng ông là một người lính và công dân Thụy Sĩ và từ chối giao nộp ông. Nhà vua đáp lại bằng cách gửi một đội quân đến biên giới Thụy Sĩ. Louis Napoleon cảm ơn những người chủ nhà Thụy Sĩ và tự nguyện rời khỏi đất nước. Những kẻ nổi loạn khác bị đưa ra xét xử ở Alsace, và tất cả đều được tha bổng.
Louis Napoleon đầu tiên đến London, sau đó đến Đế chế Brasil, và sau đó đến Thành phố New York. Ông đã gặp gỡ giới thượng lưu New York và nhà văn Washington Irving. Trong khi đang trên đường đi thăm thú nhiều nơi ở Hoa Kỳ, ông nhận được tin mẹ mình đang lâm bệnh nặng. Ông vội vã trở về Thụy Sĩ nhanh nhất có thể. Ông đến Arenenberg kịp lúc để ở bên mẹ vào ngày 5 tháng 8 năm 1837, khi bà qua đời. Cuối cùng, bà được chôn cất tại Rueil-Malmaison, Pháp, bên cạnh mẹ mình, vào ngày 11 tháng 1 năm 1838, nhưng Louis Napoleon không thể tham dự vì ông không được phép vào Pháp.[18]
Louis Napoleon trở về London cho một thời gian lưu vong mới vào tháng 10 năm 1838. Ông được thừa kế một gia tài lớn từ mẹ mình và thuê một căn nhà với 17 người hầu cùng một số bạn bè cũ và đồng chí. Ông được giới thượng lưu London tiếp đón và gặp gỡ các nhà lãnh đạo chính trị và khoa học thời bấy giờ, bao gồm Benjamin Disraeli và Michael Faraday. Ông cũng đã thực hiện nhiều nghiên cứu đáng kể về nền kinh tế của Anh. Ông đã đi dạo trong Công viên Hyde, nơi sau này ông đã sử dụng làm mô hình khi ông tạo ra Bois de Boulogne ở Paris.[19] Ông đã dành mùa đông năm 1838-39 tại Leamington Spa ở Warwickshire.[19]
Cuộc đảo chính thứ hai, nhà tù, trốn thoát và lưu đày (1840–1848)
Sống trong sự thoải mái của London, ông vẫn không từ bỏ giấc mơ trở về Pháp để phục hưng triều đại Bonaparte. Mùa hè năm 1840, ông mua vũ khí và quân phục, cho in các bản tuyên cáo, tập hợp một đội quân khoảng 60 người có vũ trang, thuê một con tàu tên là Edinburgh-Castle, và vào ngày 6 tháng 8 năm 1840, ông vượt eo biển Manche đến cảng Boulogne. Âm mưu đảo chính đã trở thành một thất bại thậm chí còn lớn hơn cả cuộc binh biến ở Strasbourg. Những kẻ nổi loạn bị hải quan chặn lại, binh lính đồn trú từ chối tham gia, những kẻ nổi loạn bị bao vây trên bãi biển, một người bị giết và những người khác bị bắt. Cả báo chí Anh và Pháp đều chế giễu Louis-Napoleon và âm mưu của ông. Tờ Journal des débats viết, "điều này còn hơn cả hài kịch. Người ta không giết người điên, người ta chỉ nhốt họ lại." Ông đã bị đưa ra xét xử, tại đó, mặc dù đã biện hộ hùng hồn cho lý lẽ của mình, ông vẫn bị kết án tù chung thân tại pháo đài Ham ở tỉnh Somme, miền Bắc nước Pháp.[20][21]
Các hoạt động
Sổ đăng ký của pháo đài Ham ngày 7 tháng 10 năm 1840, có mô tả ngắn gọn về tù nhân mới: "Tuổi: 32 tuổi. Chiều cao: 1m66. Tóc và lông mày: màu hạt dẻ. Mắt: Xám và nhỏ. Mũi: to. Miệng: bình thường. Râu: nâu. Ria mép: vàng hoe. Cằm: nhọn. Mặt: hình bầu dục. Nước da: nhợt nhạt. Đầu: hóp vào vai, vai rộng. Lưng: cong. Môi: dày".[22] Ông có một tình nhân tên là Eléonore Vergeot, một phụ nữ trẻ đến từ thị trấn Ham, người đã sinh cho ông hai người con.[23]
Trong thời gian ở tù, Louis Napoleon đã viết thơ, tiểu luận chính trị và các bài báo về nhiều chủ đề khác nhau. Ông đã đóng góp bài viết cho các tờ báo và tạp chí địa phương ở các thị trấn trên khắp nước Pháp, trở nên khá nổi tiếng với tư cách là một nhà văn. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là L'extinction du pauperisme (1844), một nghiên cứu về nguyên nhân của nghèo đói trong tầng lớp công nhân Pháp, với các đề xuất xóa bỏ tình trạng này. Kết luận của ông: "Giai cấp công nhân chẳng có gì cả, cần phải trao cho họ quyền sở hữu. Họ không có tài sản nào khác ngoài sức lao động của chính mình, cần phải trao cho họ công việc mang lại lợi ích cho tất cả mọi người... họ không có tổ chức và không có mối quan hệ, không có quyền lợi và không có tương lai; cần phải trao cho họ quyền lợi và tương lai, đồng thời nuôi dạy họ theo cách riêng của họ thông qua sự kết nối, giáo dục và kỷ luật". Ông đã đề xuất nhiều ý tưởng thực tế để tạo ra một hệ thống ngân hàng và tiết kiệm cung cấp tín dụng cho giai cấp công nhân, và thành lập các thuộc địa nông nghiệp tương tự như các kibbutz sau này được thành lập ở Israel.[24] Cuốn sách này đã được tái bản và lưu hành rộng rãi ở Pháp, và đóng một vai trò quan trọng trong thành công bầu cử sau này của ông.
Louis Napoleon bận rộn trong tù, nhưng cũng bất mãn và mất kiên nhẫn. Ông nhận thức được rằng danh tiếng của bác mình đang ngày càng tăng ở Pháp; Napoleon I là chủ đề của những bài thơ, sách và vở kịch anh hùng. Đám đông khổng lồ đã tụ tập tại Paris vào ngày 15 tháng 12 năm 1840 khi hài cốt của Napoleon được trao trả với nghi lễ long trọng về Paris, được tổ chức bởi Vua Louis Philippe, trong khi Louis Napoleon chỉ có thể đọc về điều đó trong tù. Ngày 25 tháng 5 năm 1846, với sự giúp đỡ của bác sĩ và những người bạn khác ở bên ngoài, ông cải trang thành một người lao động khuân vác gỗ và bước ra khỏi nhà tù. Sau đó, kẻ thù của ông chế giễu gọi ông là "Badinguet", tên của người lao động mà ông đã giả danh. Một cỗ xe ngựa đang chờ để đưa ông đến bờ biển và sau đó đi thuyền đến Anh. Một tháng sau khi ông trốn thoát, cha ông, Louis, qua đời, khiến Charles Napoleon trở thành người thừa kế hiển nhiên của triều đại Bonaparte.[25]
Trở về Anh và những chuyện ban đầu

Louis Napoleon nhanh chóng lấy lại vị trí của mình trong xã hội Anh. Ông sống ở phố King, St James, London, đi xem kịch và săn bắn, nối lại tình bạn với Benjamin Disraeli và gặp Charles Dickens. Ông quay lại học tại Bảo tàng Anh. Ông ngoại tình với nữ diễn viên Rachel Félix, nữ diễn viên người Pháp nổi tiếng nhất thời bấy giờ, trong thời gian bà lưu diễn ở Anh. Quan trọng hơn cho sự nghiệp tương lai của ông, ông ngoại tình với nữ thừa kế giàu có Harriet Howard (1823–1865). Họ gặp nhau vào năm 1846, ngay sau khi ông trở về Anh. Họ bắt đầu sống chung, và bà nhận nuôi hai đứa con ngoài giá thú của ông và nuôi dạy chúng cùng với con trai của mình, và bà cung cấp tài chính cho các kế hoạch chính trị của ông để khi thời điểm đến, ông có thể trở về Pháp.plans so that, when the moment came, he could return to France.[26]
Remove ads
Sự nghiệp chính trị ban đầu
Cách mạng 1848 và sự ra đời của nền Đệ nhị cộng hoà
Tháng 2 năm 1848, Louis Napoleon hay tin Cách mạng Pháp 1848 đã nổ ra; Vua Louis Philippe I, do vấp phải sự phản đối từ chính phủ và quân đội, đã thoái vị. Tin rằng thời khắc của mình cuối cùng đã đến, ông lên đường trở về Paris vào ngày 27 tháng 2, rời khỏi nước Anh cùng ngày Louis-Philippe rời Pháp sang Anh lưu vong. Khi đến Paris, ông thấy rằng Đệ nhị Cộng hòa Pháp đã được tuyên bố thành lập, một Chính phủ Lâm thời do Alphonse de Lamartine lãnh đạo, và các phe phái cộng hòa khác nhau, từ phe bảo thủ đến phe cực tả, đang tranh giành quyền lực. Ông viết thư cho Lamartine thông báo về chuyến đi của mình, nói rằng ông "không có tham vọng nào khác ngoài việc phục vụ đất nước". Lamartine trả lời một cách lịch sự nhưng kiên quyết, yêu cầu Louis-Napoleon rời Paris "cho đến khi thành phố yên bình hơn, và không phải trước cuộc bầu cử Quốc hội". Các cố vấn thân cận của ông thúc giục ông ở lại và cố gắng nắm quyền, nhưng ông muốn thể hiện sự thận trọng và lòng trung thành của mình với nền Cộng hòa; Trong khi các cố vấn của ông vẫn ở Paris, ông trở về London vào ngày 2 tháng 3 năm 1848 và theo dõi các sự kiện từ đó.[27]
Louis Napoleon không tham gia cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên, được tổ chức vào tháng 4 năm 1848, nhưng ba thành viên của Nhà Bonaparte là Jérôme Bonaparte, Pierre Napoléon Bonaparte và Lucien Murat đã đắc cử; tên tuổi của người Nhà Bonaparte vẫn còn sức mạnh chính trị. Trong cuộc bầu cử tiếp theo, vào ngày 4 tháng 6, khi các ứng cử viên có thể tranh cử ở nhiều tỉnh, ông đã được bầu ở bốn tỉnh khác nhau; tại Paris, ông nằm trong số năm ứng cử viên hàng đầu, chỉ sau nhà lãnh đạo bảo thủ Adolphe Thiers và Victor Hugo. Những người ủng hộ ông chủ yếu thuộc cánh tả, thuộc tầng lớp nông dân và công nhân. Cuốn sách nhỏ của ông về "Sự diệt vong của chủ nghĩa bần cùng" được phát hành rộng rãi ở Paris, và tên tuổi của ông được ca ngợi cùng với tên tuổi của các ứng cử viên xã hội chủ nghĩa Armand Barbès và Louis Blanc.[28]
Các nhà lãnh đạo Cộng hòa trung dung của chính phủ lâm thời, Lamartine và Cavaignac, coi việc bắt giữ Louis Napoleon là một hành động cách mạng nguy hiểm, nhưng một lần nữa ông đã qua mặt họ. Ông viết thư cho chủ tịch chính phủ lâm thời: "Tôi tin rằng tôi nên chờ đợi để trở về trung tâm đất nước, để sự hiện diện của tôi ở Pháp sẽ không trở thành cái cớ cho kẻ thù của nền Cộng hòa".[29]
Vào tháng 6 năm 1848, cuộc Khởi nghĩa Những Ngày Tháng Sáu nổ ra ở Paris, do phe cực tả lãnh đạo, chống lại phe bảo thủ chiếm đa số trong Quốc hội. Hàng trăm chướng ngại vật xuất hiện ở các khu dân cư lao động. Tướng Louis-Eugène Cavaignac, người chỉ huy quân đội, ban đầu rút quân khỏi Paris để quân nổi dậy có thể triển khai chướng ngại vật, sau đó quay trở lại với lực lượng áp đảo để đàn áp cuộc nổi dậy; từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 6, đã diễn ra các trận đánh trên đường phố ở các khu vực lao động của Paris. Ước tính 5 nghìn quân nổi dậy đã bị giết tại các chướng ngại vật, 15 nghìn người bị bắt và 4 nghìn người bị trục xuất.[30]
Việc Louis Napoleon vắng mặt ở Paris đồng nghĩa với việc ông không liên quan gì đến cuộc nổi dậy hay cuộc đàn áp tàn bạo sau đó. Ông vẫn ở London vào ngày 17–18 tháng 9, khi cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức, nhưng ông là ứng cử viên ở 13 tỉnh. Ông được bầu ở 5 tỉnh; tại Paris, ông nhận được 110.000 phiếu bầu trong số 247.000 phiếu bầu, số phiếu bầu cao nhất trong số các ứng cử viên. Ông trở về Paris vào ngày 24 tháng 9 và lần này ông đã có một vị trí trong Quốc hội. Trong 7 tháng, ông đã chuyển từ một cuộc lưu vong chính trị ở London đến một vị trí rất nổi bật trong Quốc hội, khi chính phủ hoàn thành hiến pháp mới và chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Pháp.[31]
Cuộc bầu cử tổng thống năm 1848


Hiến pháp mới của Đệ nhị Cộng hòa, do một ủy ban bao gồm Alexis de Tocqueville soạn thảo, yêu cầu một cơ quan hành pháp mạnh mẽ và một tổng thống được bầu bằng phổ thông đầu phiếu thông qua quyền bầu cử phổ thông của nam giới, thay vì do Quốc hội lựa chọn.[32] Cuộc bầu cử được lên kế hoạch vào ngày 10–11 tháng 12 năm 1848. Louis Napoleon ngay lập tức tuyên bố ứng cử. Có bốn ứng cử viên khác cho vị trí này: Tướng Cavaignac, người đã chỉ huy cuộc đàn áp các cuộc nổi dậy tháng Sáu ở Paris; Lamartine, nhà thơ-triết gia và là lãnh đạo của chính phủ lâm thời; Alexandre Auguste Ledru-Rollin, lãnh đạo của những người xã hội chủ nghĩa; và François-Vincent Raspail, lãnh đạo của cánh tả cực đoan của những người xã hội chủ nghĩa.[33]
Louis Napoleon đặt trụ sở chiến dịch tranh cử và dinh thự của mình tại Hôtel du Rhin trên Quảng trường Vendôme. Ông đi cùng người bạn đồng hành, Harriet Howard, người đã cho ông một khoản vay lớn để hỗ trợ tài chính cho chiến dịch. Ông hiếm khi tham dự các kỳ họp của Quốc hội và hiếm khi bỏ phiếu. Ông không phải là một nhà hùng biện tài năng; Ông nói chậm rãi, đều đều, với giọng Đức nhẹ do được giáo dục tại Thụy Sĩ. Những người phản đối đôi khi chế giễu ông, ví ông như "một con gà tây tự cho mình là đại bàng".[34]
Chiến dịch tranh cử của Louis Napoleon thu hút cả phe tả lẫn phe hữu. Tuyên ngôn tranh cử của ông tuyên bố ủng hộ "tôn giáo, gia đình, tài sản, nền tảng vĩnh cửu của mọi trật tự xã hội". Nhưng nó cũng thể hiện ý định "tạo việc làm cho những người thất nghiệp; chăm lo cho tuổi già của người lao động; đưa vào luật lao động những cải tiến không làm suy yếu người giàu, mà mang lại hạnh phúc cho mỗi người và sự thịnh vượng cho tất cả".[35]
Các đại diện tranh cử của Louis Napoleon, nhiều người trong số họ là cựu chiến binh từ quân đội của Napoleon Bonaparte, đã vận động ủng hộ ông trên khắp đất nước. Louis Napoleon đã giành được sự ủng hộ miễn cưỡng của nhà lãnh đạo bảo thủ Adolphe Thiers, người tin rằng ông có thể là người dễ bị kiểm soát nhất; Thiers gọi ông là "trong số tất cả các ứng cử viên, người ít tệ nhất".[36] Ông đã giành được sự ủng hộ của L'Evenement, tờ báo của Victor Hugo, với tuyên bố: "Chúng tôi tin tưởng ông ấy; ông ấy mang một cái tên vĩ đại".[37] Đối thủ chính của ông, Tướng Cavaignac, dự đoán Louis Napoleon sẽ về nhất, nhưng ông sẽ nhận được chưa đến 50% số phiếu bầu, điều đó có nghĩa là cuộc bầu cử sẽ được chuyển đến Quốc hội, nơi Cavaignac chắc chắn sẽ giành chiến thắng.
Cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 10–11 tháng 12. Kết quả được công bố vào ngày 20 tháng 12. Louis Napoleon được nhiều người dự đoán sẽ giành chiến thắng, nhưng quy mô chiến thắng của ông đã khiến hầu hết mọi người ngạc nhiên. Ông giành được 5.572.834 phiếu bầu, tương đương 74,2% số phiếu bầu, so với 1.469.156 phiếu bầu của Cavaignac. Ứng cử viên xã hội chủ nghĩa Ledru-Rollin nhận được 376.834 phiếu bầu; ứng cử viên cực tả Raspail nhận được 37.106 phiếu bầu, và nhà thơ Lamartine chỉ nhận được 17.000 phiếu bầu. Louis Napoleon giành được sự ủng hộ của mọi tầng lớp dân chúng: nông dân bất mãn với giá cả leo thang và thuế má cao; công nhân thất nghiệp; doanh nhân nhỏ mong muốn thịnh vượng và trật tự; và giới trí thức như Victor Hugo. Ông giành được 55,6% số phiếu bầu của tất cả cử tri đã đăng ký và chiến thắng ở tất cả các tỉnh của Pháp, ngoại trừ 4 tỉnh.[38]
- Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1848 là cuộc đối đầu giữa Louis Napoleon với Tướng Cavaignac, Bộ trưởng Quốc phòng của Chính phủ lâm thời và các nhà lãnh đạo của đảng xã hội.
- Bài luận "Sự diệt vong của nạn bần cùng" của Louis Napoleon, ủng hộ các cải cách nhằm giúp đỡ giai cấp công nhân, đã được phổ biến rộng rãi trong chiến dịch tranh cử năm 1848.
Hoàng thân-Tổng thống (1848–1851)
Louis Napoleon chuyển dinh thự của mình đến Điện Élysée vào cuối tháng 12 năm 1848 và ngay lập tức treo một bức chân dung của mẹ mình trong phòng ngủ và một bức chân dung của Hoàng đế Napoleon I, trong bộ lễ phục đăng quang, trong phòng khách lớn. Adolphe Thiers khuyến nghị ông nên mặc trang phục "dân chủ đơn giản", nhưng theo gương bác mình, ông đã chọn quân phục của Tổng tư lệnh Vệ binh Quốc gia và chọn danh hiệu "Hoàng thân-Tổng thống".[39]
Louis Napoleon cũng lần đầu tiên dấn thân vào chính sách đối ngoại tại Ý, nơi khi còn trẻ ông đã tham gia vào cuộc nổi dậy yêu nước chống lại người Áo. Chính phủ tiền nhiệm đã cử một lực lượng viễn chinh, được Quốc hội giao nhiệm vụ và tài trợ, để hỗ trợ các lực lượng cộng hòa ở Ý chống lại người Áo và chống lại Giáo hoàng. Thay vào đó, lực lượng này được bí mật lệnh làm điều ngược lại, cụ thể là tiến vào Rome để giúp khôi phục quyền lực thế tục của Giáo hoàng Piô IX, người đã bị lật đổ bởi những người cộng hòa Ý, bao gồm Mazzini và Garibaldi. Quân đội Pháp bị quân lính của Garibaldi tấn công. Hoàng thân-Tổng thống, không tham khảo ý kiến các bộ trưởng, đã ra lệnh cho binh lính của mình chiến đấu nếu cần để ủng hộ Giáo hoàng. Điều này rất được lòng những người Công giáo Pháp, nhưng lại khiến những người cộng hòa, vốn ủng hộ Cộng hòa La Mã, tức giận.[39] Để làm hài lòng những người cộng hòa cấp tiến, ông yêu cầu Giáo hoàng ban hành các cải cách tự do và áp dụng Bộ luật Napoleon cho Lãnh địa Giáo hoàng. Để giành được sự ủng hộ từ những người Công giáo, ông đã phê chuẩn Loi Falloux vào năm 1851, đạo luật này đã khôi phục vai trò lớn hơn của Giáo hội Công giáo trong hệ thống giáo dục Pháp.[40]
Các cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức vào ngày 13–14 tháng 5 năm 1849, chỉ vài tháng sau khi Louis Napoleon lên nắm quyền, và phần lớn chiến thắng thuộc về liên minh những người cộng hòa bảo thủ—mà những người Công giáo và quân chủ gọi là "Đảng Trật tự"—do Thiers lãnh đạo. Những người theo chủ nghĩa xã hội và những người cộng hòa "đỏ", do Ledru-Rollin và Raspail lãnh đạo, cũng giành được 200 ghế. Những người cộng hòa ôn hòa, ở giữa, đã thất bại thảm hại, chỉ giành được 70–80 ghế. Đảng Trật tự chiếm đa số rõ ràng, đủ để ngăn chặn mọi sáng kiến của Louis Napoleon.[41]
Ngày 11 tháng 6 năm 1849, những người theo chủ nghĩa xã hội và những người cộng hòa cấp tiến đã nỗ lực giành chính quyền. Ledru-Rollin, từ trụ sở của mình tại Học viện Nghệ thuật và Nghề nghiệp, tuyên bố Louis Napoleon không còn là Tổng thống và kêu gọi một cuộc tổng nổi dậy. Một vài chướng ngại vật xuất hiện ở các khu dân cư lao động của Paris. Louis Napoleon đã hành động nhanh chóng, và cuộc nổi dậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Paris bị tuyên bố trong tình trạng phong toả, trụ sở của cuộc nổi dậy bị bao vây, và các nhà lãnh đạo bị bắt giữ. Ledru-Rollin chạy trốn sang Anh, Raspail bị bắt và bị tống giam, các câu lạc bộ cộng hòa bị đóng cửa, và các tờ báo của họ cũng bị đóng cửa.
Quốc hội, lúc này không còn những người cộng hòa cánh tả và quyết tâm loại họ ra khỏi cuộc chơi mãi mãi, đã đề xuất một luật bầu cử mới, đặt ra những hạn chế đối với quyền bầu cử phổ thông đầu phiếu của nam giới, áp đặt yêu cầu cư trú ba năm. Luật mới này đã loại trừ 3,5 trong số 9 triệu cử tri Pháp, những cử tri mà lãnh đạo Đảng Trật tự, Adolphe Thiers, đã gọi một cách khinh miệt là "đám đông đê tiện".[42] Luật bầu cử mới này được thông qua vào tháng 5 năm 1850 với đa số 433 phiếu thuận và 241 phiếu chống, đặt Quốc hội vào thế đối đầu trực tiếp với Hoàng thân-Tổng thống.[43] Louis Napoleon đã bất đồng với Quốc hội và các bộ trưởng bảo thủ phản đối các dự án của ông, ủng hộ những người bị tước đoạt. Ông đã giành được sự ủng hộ của quân đội, đi khắp đất nước để thực hiện các bài phát biểu dân túy lên án Quốc hội, và tự xưng là người bảo vệ quyền bầu cử phổ thông cho nam giới. Ông yêu cầu thay đổi luật, nhưng đề xuất của ông đã bị Quốc hội bác bỏ với tỷ lệ phiếu 355 phiếu thuận và 348 phiếu chống.[44]
Theo Hiến pháp năm 1848, Louis Napoleon phải từ chức khi hết nhiệm kỳ. Ông đã tìm kiếm một sửa đổi hiến pháp để cho phép mình kế vị, với lý do 4 năm là không đủ để thực hiện đầy đủ chương trình chính trị và kinh tế của mình. Ông đã đi khắp đất nước và nhận được sự ủng hộ từ nhiều chính quyền khu vực và nhiều người trong Quốc hội. Cuộc bỏ phiếu vào tháng 7 năm 1851 là 446 phiếu thuận và 278 phiếu chống, ủng hộ việc thay đổi luật và cho phép ông tái tranh cử, nhưng vẫn chưa đạt được đa số hai phần ba cần thiết để sửa đổi hiến pháp.[45]
Đảo chính (tháng 12 năm 1851)


Louis Napoleon tin rằng ông được nhân dân ủng hộ và ông đã chọn duy trì quyền lực bằng các phương tiện khác. Em trai cùng cha khác mẹ của ông là Charles, duc de Morny, và một vài cố vấn thân cận đã âm thầm bắt đầu tổ chức một cuộc đảo chính. Họ bao gồm bộ trưởng chiến tranh Jacques Leroy de Saint-Arnaud và các sĩ quan từ Quân đội Pháp ở Bắc Phi để cung cấp hậu thuẫn quân sự cho cuộc đảo chính. Vào đêm ngày 1–2 tháng 12, quân lính của Saint Arnaud đã âm thầm chiếm giữ nhà in quốc gia, Palais Bourbon, các tòa soạn báo và các địa điểm chiến lược trong thành phố. Vào buổi sáng, người dân Paris thấy các áp phích khắp thành phố thông báo về việc giải tán Quốc hội, khôi phục quyền phổ thông đầu phiếu, các cuộc bầu cử mới và tình trạng bao vây ở Paris và các tỉnh lân cận. Mười sáu thành viên của Quốc hội đã bị bắt tại nhà của họ. Khi khoảng 220 đại biểu của phe cánh hữu ôn hòa tập trung tại tòa thị chính của quận 10, họ cũng bị bắt.[46] Vào ngày 3 tháng 12, nhà văn Victor Hugo và một số người cộng hòa khác đã cố gắng tổ chức một cuộc phản đối cuộc đảo chính. Một vài chướng ngại vật xuất hiện, và khoảng 1.000 phiến quân tràn ra đường phố, nhưng quân đội đã hành quân với 30.000 quân và các cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dập tắt, với khoảng 300 đến 400 người phản đối cuộc đảo chính bị giết.[47] Cũng có những cuộc nổi dậy nhỏ ở các thị trấn cộng hòa đỏ hiếu chiến hơn ở miền nam và miền trung nước Pháp, nhưng tất cả đều bị dập tắt vào ngày 10 tháng 12.[48]
Sau cuộc tự đảo chính, Louis Napoleon tiến hành một thời kỳ đàn áp những người phản đối, chủ yếu nhắm vào những người cộng hòa đỏ. Khoảng 26.000 người đã bị bắt, trong đó có 4.000 người chỉ riêng ở Paris. 239 tù nhân bị kết án nặng nhất đã bị đưa đến trại giam Cayenne ở Nam Mỹ.[49] 9.530 người bị đưa đến Algérie thuộc Pháp, 1.500 người bị trục xuất khỏi Pháp, và 3.000 người khác bị buộc phải rời khỏi nhà.[50] Ngay sau đó, một ủy ban xét lại đã trả tự do cho 3.500 người trong số những người bị kết án. Năm 1859, 1.800 tù nhân và người lưu vong còn lại được ân xá, ngoại trừ nhà lãnh đạo cộng hòa Ledru-Rollin, người được thả khỏi tù nhưng bị yêu cầu rời khỏi đất nước.[49]
Kiểm duyệt báo chí nghiêm ngặt được ban hành theo sắc lệnh từ ngày 17 tháng 2 năm 1852. Không một tờ báo nào đề cập đến các vấn đề chính trị hoặc xã hội được xuất bản mà không có sự cho phép của chính phủ, tiền phạt được tăng lên và danh sách các vi phạm báo chí được mở rộng. Sau ba lần cảnh cáo, một tờ báo hoặc tạp chí có thể bị đình chỉ hoặc thậm chí đóng cửa vĩnh viễn.[51]
Louis Napoleon muốn chứng minh rằng chính phủ mới của ông có sự ủy thác rộng rãi của nhân dân, vì vậy vào ngày 20–21 tháng 12, một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc đã được tổ chức để hỏi xem cử tri có đồng ý với cuộc đảo chính hay không. Thị trưởng nhiều vùng đe dọa sẽ công bố tên của bất kỳ cử tri nào từ chối bỏ phiếu. Khi được hỏi liệu họ có đồng ý với cuộc đảo chính hay không, 7.439.216 cử tri trả lời có, 641.737 người trả lời không và 1,7 triệu cử tri bỏ phiếu trắng.[52] Tính công bằng và tính hợp pháp của cuộc trưng cầu dân ý ngay lập tức bị những người chỉ trích Louis Napoleon đặt câu hỏi,[53] nhưng Louis Napoleon tin chắc rằng ông đã được trao quyền cai trị công khai.
Sau khi có kết quả, nhiều người đã thách thức tính hợp lệ của một kết quả chênh lệch khó tin như vậy.[53] Một trong những nhà phê bình như vậy là Victor Hugo, người ban đầu ủng hộ Louis Napoleon nhưng đã vô cùng tức giận trước cuộc đảo chính, đã rời đi Brussels vào ngày 11 tháng 12 năm 1851. Ông trở thành người chỉ trích Louis Napoleon gay gắt nhất, từ chối lệnh ân xá được đề nghị cho ông và không trở lại Pháp trong 20 năm.[54]
Tổng thống độc tài và xưng đế
Cuộc trưng cầu dân ý năm 1851 đã trao cho Louis Napoleon quyền sửa đổi hiến pháp. Công việc soạn thảo văn kiện mới bắt đầu vào năm 1852. Văn kiện này chính thức được chuẩn bị bởi một ủy ban gồm 80 chuyên gia, nhưng thực chất lại được soạn thảo bởi một nhóm nhỏ thân cận của Hoàng thân-Tổng thống. Theo hiến pháp mới, Louis Napoleon tự động được tái đắc cử làm tổng thống. Theo Điều Hai, tổng thống giờ đây có thể phục vụ không giới hạn số nhiệm kỳ 10 năm. Ông được trao toàn quyền tuyên chiến, ký kết hiệp ước, thành lập liên minh và ban hành luật. Hiến pháp tái lập quyền phổ thông đầu phiếu của nam giới, đồng thời duy trì Quốc hội, mặc dù thẩm quyền bị hạn chế.[55]
Chính phủ của Louis Napoleon đã áp đặt các biện pháp độc đoán mới để kiểm soát bất đồng chính kiến và làm giảm quyền lực của phe đối lập. Một trong những hành động đầu tiên của ông là trả thù kẻ thù cũ, Vua Louis Philippe I, người đã bỏ tù ông chung thân và qua đời vào năm 1850. Một sắc lệnh ban hành ngày 23 tháng 1 năm 1852 cấm gia đình cựu hoàng gia Orléans sở hữu tài sản ở Pháp và hủy bỏ quyền thừa kế mà ông đã để lại cho các con trước khi lên ngôi.
Lực lượng Vệ binh Quốc gia, với các thành viên đôi khi tham gia các cuộc biểu tình chống chính phủ, đã được tổ chức lại và phần lớn chỉ được sử dụng trong các cuộc diễu hành. Các quan chức chính phủ được yêu cầu mặc đồng phục trong các dịp lễ nghi chính thức. Bộ trưởng Giáo dục được trao quyền sa thải các giáo sư tại các trường đại học và xem xét nội dung các khóa học của họ. Sinh viên tại các trường đại học bị cấm để râu, được coi là biểu tượng của chủ nghĩa cộng hòa.[56]

Một cuộc bầu cử Quốc hội mới đã được tổ chức vào ngày 29 tháng 2 năm 1852. Toàn bộ nguồn lực của chính phủ được sử dụng thay mặt cho các ứng cử viên ủng hộ Hoàng thân-Tổng thống. Trong số tám triệu cử tri đủ điều kiện, 5.200.000 phiếu bầu đã được trao cho các ứng cử viên chính thức và 800.000 phiếu bầu cho các ứng cử viên đối lập. Khoảng một phần ba số cử tri đủ điều kiện đã bỏ phiếu trắng. Quốc hội mới bao gồm một số ít những người phản đối Louis Napoleon, bao gồm 17 người theo chế độ quân chủ, 18 người theo chủ nghĩa bảo thủ, hai người theo chủ nghĩa dân chủ tự do, ba người theo chủ nghĩa cộng hòa và 72 người độc lập.[56]
Mặc dù lúc này nắm giữ toàn bộ quyền lực cai trị trong nước, Louis Napoleon vẫn không bằng lòng với việc là một tổng thống độc tài. Mực trên bản hiến pháp mới, vốn cực kỳ độc tài của ông, vừa mới khô thì ông đã bắt tay vào việc khôi phục đế chế. Sau cuộc bầu cử, Hoàng thân-Tổng thống đã có một chuyến công du toàn quốc đầy thắng lợi. Tại Marseille, ông đã đặt viên đá góc cho một nhà thờ mới, một sàn giao dịch chứng khoán mới và một phòng thương mại. Tại Bordeaux, ngày 9 tháng 10 năm 1852, ông đã có bài phát biểu chính:
Một số người nói Đế chế là chiến tranh. Tôi nói Đế chế là hòa bình. Giống như Hoàng đế, tôi có rất nhiều cuộc chinh phạt phải thực hiện... Giống như ông ấy, tôi muốn... kéo vào dòng sông lớn của quần chúng những dòng chảy phụ thù địch đang tự đánh mất mình mà không mang lại lợi ích gì cho bất kỳ ai. Chúng ta có những vùng đất rộng lớn chưa được khai phá cần canh tác; đường sá cần mở; cảng cần đào; sông ngòi cần được thông thương; kênh đào cần hoàn thiện, mạng lưới đường sắt cần hoàn thiện. Trước Marseille, chúng ta có một vương quốc rộng lớn cần sáp nhập vào Pháp. Chúng ta có tất cả các cảng biển lớn của phương Tây cần kết nối với lục địa châu Mỹ bằng hệ thống giao thông hiện đại, mà chúng ta vẫn còn thiếu. Chúng ta có những tàn tích cần sửa chữa, những vị thần giả cần phá bỏ, những chân lý cần chiến thắng. Đây là cách tôi nhìn nhận Đế chế, nếu Đế chế được tái lập. Đây là những cuộc chinh phạt mà tôi đang cân nhắc, và các bạn xung quanh tôi, những người, giống như tôi, mong muốn lợi ích của đất nước, các bạn là những người lính của tôi.[57]
Édouard Drouyn de Lhuys, hai lần là bộ trưởng ngoại giao của Napoleon III, sau này đã nhận xét rằng, "Hoàng đế có những khát vọng to lớn nhưng năng lực lại hạn chế. Ông ấy muốn làm những điều phi thường nhưng chỉ có thể làm những điều xa hoa".[58]
Khi Louis Napoleon trở về Paris, thành phố được trang hoàng bằng những mái vòm lớn, với những biểu ngữ tuyên bố: "Tặng Napoleon III, hoàng đế". Đáp lại những yêu cầu chính thức về việc trả lại đế chế, Thượng viện đã lên lịch một cuộc trưng cầu dân ý khác vào ngày 21-22 tháng 11 năm 1852 về việc có nên phong Napoleon làm hoàng đế hay không. Sau khi có tới 97% phiếu bầu thuận (7.824.129 phiếu thuận và 253.159 phiếu chống, với hai triệu phiếu trắng), vào ngày 2 tháng 12 năm 1852—đúng một năm sau cuộc đảo chính—Nền Đệ Nhị Cộng hòa Pháp chính thức kết thúc, được thay thế bằng Đệ Nhị Đế chế Pháp.[59] Hoàng thân-Tổng thống Louis Napoleon Bonaparte trở thành Napoleon III, Hoàng đế của nước Pháp. Tên hiệu của ông coi Napoleon II, người chưa bao giờ thực sự cai trị, là một Hoàng đế thực sự (ông đã được công nhận là Hoàng đế trong một thời gian ngắn từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 7 tháng 7 năm 1815). Hiến pháp năm 1852 vẫn được giữ nguyên; nó tập trung quá nhiều quyền lực vào tay Napoleon đến mức những thay đổi thực chất duy nhất là thay thế từ "tổng thống" bằng từ "hoàng đế", và chuyển chức vụ này thành cha truyền con nối.
Remove ads
Đệ Nhị Đế chế Pháp
Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và nền kinh tế (1853–1869)
Xây dựng ban đầu
Một trong những ưu tiên hàng đầu của Napoleon III là hiện đại hóa nền kinh tế Pháp, vốn đã tụt hậu rất xa so với Vương quốc Anh và một số nhà nước của Đức. Kinh tế chính trị từ lâu đã là niềm đam mê của Hoàng đế. Khi ở Anh, ông đã đến thăm các nhà máy và ga tàu; trong tù, ông đã nghiên cứu và viết về ngành công nghiệp đường và các chính sách xóa đói giảm nghèo. Ông muốn chính phủ đóng một vai trò chủ động, chứ không phải thụ động, trong nền kinh tế. Năm 1839, ông đã viết: "Chính phủ không phải là một điều xấu tất yếu, như một số người vẫn tuyên bố; thay vào đó, nó là động lực tốt cho toàn bộ cơ thể xã hội".[60] Ông không ủng hộ việc chính phủ can thiệp trực tiếp vào công nghiệp. Thay vào đó, chính phủ đã đóng một vai trò rất tích cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho tăng trưởng kinh tế; kích thích thị trường chứng khoán và các ngân hàng đầu tư cung cấp tín dụng; xây dựng đường sắt, cảng, kênh đào và đường bộ; và cung cấp đào tạo và giáo dục. Ông cũng mở cửa thị trường Pháp cho hàng hóa nước ngoài, chẳng hạn như đường sắt từ Anh, buộc ngành công nghiệp Pháp phải trở nên hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn.[61]
Thời kỳ này thuận lợi cho việc mở rộng công nghiệp. Cơn sốt vàng ở California và Úc đã làm tăng nguồn cung tiền tệ của châu Âu. Trong những năm đầu của Đế chế, nền kinh tế cũng được hưởng lợi từ sự trưởng thành của những người sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số của thời kỳ Phục hưng.[62] Sự tăng giá đều đặn do sự gia tăng nguồn cung tiền tệ đã khuyến khích việc thúc đẩy các công ty và đầu tư vốn.
Từ năm 1852, Napoleon khuyến khích thành lập các ngân hàng mới, chẳng hạn như Crédit Mobilier, ngân hàng này bán cổ phần cho công chúng và cung cấp các khoản vay cho cả khu vực tư nhân và chính phủ. Crédit Lyonnais được thành lập năm 1863 và Société Générale năm 1864. Các ngân hàng này đã cung cấp vốn cho các dự án lớn của Napoleon III, từ đường sắt và kênh đào đến việc tái thiết Paris.
Năm 1851, Pháp chỉ có 3.500 km đường sắt, so với 10.000 km ở Anh và 800 km ở Vương quốc Bỉ, một quốc gia chỉ bằng 1/20 diện tích của Pháp. Chỉ vài ngày sau cuộc đảo chính năm 1851, Bộ trưởng Công chính của Napoléon đã khởi động một dự án xây dựng một tuyến đường sắt quanh Paris, kết nối các tuyến đường sắt độc lập khác nhau đến Paris từ khắp cả nước. Chính phủ đã bảo lãnh các khoản vay để xây dựng các tuyến đường sắt mới và thúc giục các công ty đường sắt hợp nhất. Có 18 công ty đường sắt vào năm 1848 và 6 công ty vào cuối thời kỳ Đế chế. Đến năm 1870, Pháp đã có 20.000 km đường sắt kết nối với các cảng của Pháp và với hệ thống đường sắt của các nước láng giềng, vận chuyển hơn 100 triệu hành khách mỗi năm và vận chuyển các sản phẩm từ các nhà máy thép, mỏ và nhà máy mới của Pháp.[63]
Sự phát triển của tàu hơi nước và công cuộc tái thiết ban đầu ở Paris
Các tuyến vận tải biển mới được thành lập, và các cảng được xây dựng lại ở Marseille và Le Havre, kết nối Pháp bằng đường biển với Hoa Kỳ, Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Viễn Đông. Trong thời kỳ Đế chế, số lượng tàu hơi nước đã tăng gấp ba lần, và đến năm 1870, Pháp sở hữu đội tàu biển lớn thứ hai thế giới sau Anh.[64] Napoleon III đã ủng hộ dự án hàng hải vĩ đại nhất thời bấy giờ, đó là việc xây dựng Kênh đào Suez từ năm 1859 đến năm 1869. Dự án kênh đào được tài trợ bằng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Paris và do cựu nhà ngoại giao Pháp Ferdinand de Lesseps chỉ đạo. Nó được khai trương bởi Hoàng hậu Eugénie với buổi biểu diễn vở opera Aida của Giuseppe Verdi.[65]
Việc tái thiết trung tâm Paris cũng khuyến khích sự mở rộng và đổi mới thương mại. Cửa hàng bách hóa đầu tiên, Le Bon Marché, khai trương tại Paris vào năm 1852, trong một tòa nhà khiêm tốn và phát triển nhanh chóng, doanh thu tăng từ 450.000 franc một năm lên 20 triệu franc. Người sáng lập là Aristide Boucicaut, đã ủy thác xây dựng một tòa nhà kính và sắt mới do Louis-Charles Boileau và Gustave Eiffel thiết kế, khánh thành năm 1869 và trở thành hình mẫu cho các cửa hàng bách hóa hiện đại. Các cửa hàng bách hóa khác nhanh chóng xuất hiện: Au Printemps năm 1865 và La Samaritaine năm 1870. Chúng nhanh chóng được sao chép trên khắp thế giới.[66]
Chương trình của Napoleon cũng bao gồm việc cải tạo đất nông nghiệp và tái trồng rừng. Một dự án như vậy ở tỉnh Gironde đã thoát nước và tái trồng rừng trên 10.000 km2 (3.900 dặm vuông) đất đồng cỏ, tạo ra rừng Landes, rừng thông ven biển lớn nhất châu Âu.
Tái thiết Paris (1854–1870)

Napoleon III bắt đầu chế độ của mình bằng cách khởi động một loạt các dự án công trình công cộng khổng lồ ở Paris, tuyển dụng hàng chục nghìn công nhân để cải thiện vệ sinh, cấp nước và giao thông của thành phố. Để chỉ đạo nhiệm vụ này, ông đã bổ nhiệm Georges-Eugène Haussmann, một tỉnh trưởng mới của Seine, và trao cho ông ta những quyền hạn đặc biệt để xây dựng lại trung tâm thành phố. Ông đã đặt một bản đồ Paris lớn ở vị trí trung tâm trong văn phòng của mình, và ông cùng Haussmann đã lên kế hoạch cho một Paris mới.[67]
Dân số Paris đã tăng gấp đôi kể từ năm 1815, trong khi diện tích của thành phố không hề tăng lên cũng như cấu trúc của những con phố và ngõ hẻm thời trung cổ rất hẹp không hề được phát triển.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân số và những người sẽ bị buộc phải rời khỏi trung tâm do việc xây dựng các đại lộ và quảng trường mới, Napoleon đã ban hành một sắc lệnh vào năm 1860 để sáp nhập mười một xã (đô thị) ở ngoại ô Paris và tăng số quận từ 12 lên 20. Paris nhờ đó được mở rộng đến ranh giới hiện đại, ngoại trừ hai công viên thành phố lớn (Bois de Boulogne và Bois de Vincennes) đã trở thành một phần của thủ đô nước Pháp vào năm 1920.
Trong suốt thời kỳ trị vì của Napoleon III và một thập kỷ sau đó, phần lớn Paris là một công trường xây dựng khổng lồ. Kỹ sư trưởng thủy lực của ông, Eugène Belgrand, đã xây dựng một đường ống dẫn nước mới để dẫn nước sạch từ sông Vanne ở vùng Champagne, và một hồ chứa nước khổng lồ mới gần Công viên Montsouris tương lai. Hai công trình này đã tăng nguồn cung cấp nước cho Paris từ 87.000 lên 400.000 mét khối nước mỗi ngày.[68] Hàng trăm km đường ống phân phối nước khắp thành phố, và một mạng lưới thứ hai, sử dụng nguồn nước kém sạch hơn từ sông Ourcq và sông Seine, đã rửa sạch đường phố và tưới tiêu cho công viên và khu vườn mới. Ông đã xây dựng lại hoàn toàn hệ thống cống rãnh Paris và lắp đặt hàng dặm đường ống để phân phối khí cho hàng ngàn đèn đường mới dọc theo các con phố Paris.[69]
Bắt đầu từ năm 1854, tại trung tâm thành phố, các công nhân của Haussmann đã phá bỏ hàng trăm tòa nhà cũ và xây dựng những đại lộ mới để kết nối các điểm trung tâm của thành phố. Các tòa nhà dọc theo những đại lộ này được yêu cầu phải có cùng chiều cao, được xây dựng theo phong cách kiến trúc tương tự, và được ốp đá màu kem để tạo nên diện mạo đặc trưng của các đại lộ Paris.
Hoàng đế đã cho xây dựng hai nhà ga đường sắt mới: Ga Lyon (1855) và Ga du Nord (1865). Ông đã hoàn thành Les Halles, khu chợ nông sản lớn bằng gang và kính ở trung tâm thành phố, và xây dựng một bệnh viện thành phố mới, Hôtel-Dieu de Paris, thay thế cho những tòa nhà thời trung cổ đổ nát trên đảo Ile de la Cité. Điểm nhấn kiến trúc đặc trưng là Nhà hát Opera Paris, nhà hát lớn nhất thế giới, do Charles Garnier thiết kế để tôn vinh trung tâm Paris mới của Napoleon.[70]
Napoleon cũng muốn xây dựng các công viên và vườn mới để người dân Paris giải trí và thư giãn, đặc biệt là những người ở các khu phố mới của thành phố đang mở rộng.[71] Các công viên mới của Napoleon được lấy cảm hứng từ ký ức của ông về các công viên ở London, đặc biệt là Công viên Hyde, nơi ông đã đi dạo và dạo chơi trên xe ngựa khi sống lưu vong; nhưng ông muốn xây dựng ở quy mô lớn hơn nhiều. Làm việc với Haussmann và Adolphe Alphand, kỹ sư đứng đầu Sở Đường dạo bộ và Đồn điền mới, ông đã vạch ra kế hoạch cho bốn công viên lớn tại các điểm chính của la bàn xung quanh thành phố. Hàng ngàn công nhân và người làm vườn bắt đầu đào hồ, xây dựng thác nước, trồng cỏ, luống hoa và cây xanh, và xây dựng các nhà gỗ và hang động. Napoleon III đã biến Bois de Boulogne thành một công viên ở phía tây Paris. Về phía đông, ông cho xây dựng Bois de Vincennes, và về phía bắc là Công viên Buttes-Chaumont. Công viên Montsouris được xây dựng ở phía nam.[71]
Ngoài việc xây dựng bốn công viên lớn, Napoleon còn cho cải tạo và trồng lại cây xanh cho các công viên cũ của thành phố, bao gồm Công viên Monceau, trước đây thuộc sở hữu của gia đình Orléans, và Vườn Luxembourg. Ông cũng cho xây dựng khoảng 20 công viên và vườn nhỏ trong các khu phố như những phiên bản thu nhỏ của các công viên lớn của mình. Alphand gọi những công viên nhỏ này là "những salon xanh và hoa". Ý định của Napoleon trong kế hoạch này là mỗi khu phố trong số 80 "khu phố" (khu phố) của Paris sẽ có một công viên, sao cho không ai ở cách công viên đó quá mười phút đi bộ. Các công viên này đã ngay lập tức tiếp cận thành công với mọi tầng lớp người dân Paris.[72]
Tìm kiếm một người vợ

Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, Napoleon III bắt đầu tìm kiếm một người vợ để sinh cho mình một người thừa kế. Ông vẫn gắn bó với người bạn tình lâu năm Harriet Howard, người đã tham dự các buổi tiệc chiêu đãi tại Điện Élysée và du ngoạn khắp nước Pháp cùng ông. Napoleon lặng lẽ cử một phái đoàn ngoại giao đến tiếp cận gia đình Thân vương nữ Carola xứ Vasa, cháu gái của Vua Gustav IV Adolf của Thụy Điển bị phế truất. Họ đã từ chối vì ông theo đạo Công giáo và tình hình chính trị bất ổn về tương lai của ông, cũng như gia đình Thân vương nữ Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg, cháu gái của Nữ hoàng Victoria.
Hoàng đế phải lòng một nữ quý tộc Tây Ban Nha 23 tuổi, Eugénie du Derje de Montijo. Cô được học hành phần lớn ở Paris. Vẻ đẹp của cô đã thu hút Napoleon III, và theo thói quen, ông đã cố gắng quyến rũ cô, nhưng Eugénie bảo ông hãy đợi đến khi kết hôn. Lễ cưới dân sự được tổ chức tại Cung điện Tuileries vào ngày 22 tháng 1 năm 1853, và một buổi lễ long trọng hơn nhiều được tổ chức vài ngày sau đó tại Nhà thờ Đức Bà Paris. Năm 1856, Eugénie sinh hạ một hoàng tử và là người thừa kế tương lai, Napoléon, Thái tử hoàng gia.[73]
Sau khi đã có người thừa kế ngai vàng, Napoléon lại tiếp tục những cuộc "vui chơi nhỏ nhặt" với những người phụ nữ khác. Eugénie trung thành thực hiện nhiệm vụ của một hoàng hậu, chiêu đãi khách khứa và tháp tùng Hoàng đế đến các buổi khiêu vũ, opera và nhà hát. Bà đã đến Ai Cập để khánh thành Kênh đào Suez và chính thức đại diện cho ông mỗi khi ông ra nước ngoài.
Mặc dù là một người Công giáo sùng đạo và bảo thủ trong nhiều vấn đề khác, Eugénie vẫn hết sức ủng hộ bình đẳng cho phụ nữ. Bà đã gây áp lực buộc Bộ Giáo dục Quốc gia trao bằng tú tài đầu tiên cho một phụ nữ và đã cố gắng nhưng không thành công để thuyết phục Viện hàn lâm Pháp bầu nhà văn George Sand làm viện sĩ nữ đầu tiên của viện.[74]
Remove ads
Chính sách đối ngoại (1852–1860)
Về chính sách đối ngoại, Napoléon III đặt mục tiêu tái khẳng định ảnh hưởng của Pháp ở châu Âu và trên toàn thế giới với tư cách là người ủng hộ chủ quyền của nhân dân và chủ nghĩa dân tộc.[75] Tại châu Âu, ông liên minh với Anh và đánh bại Nga trong Chiến tranh Krym (1854–1856). Quân đội Pháp đã hỗ trợ thống nhất nước Ý bằng cách chiến đấu bên cạnh Vương quốc Sardegna. Đổi lại, Pháp nhận được Savoy và Bá quốc Nice vào năm 1860. Tuy nhiên, sau đó, để xoa dịu những người Công giáo nhiệt thành ở Pháp, ông đã cử quân đội đến bảo vệ Lãnh địa Giáo hoàng trước sự thôn tính của Ý.[76][77]
Nguyên tắc các dân tộc

Trong một bài phát biểu tại Bordeaux ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, Napoléon III đã tuyên bố rằng "Đế chế đồng nghĩa với hòa bình" ("L'Empire, c'est la paix"), trấn an các chính phủ nước ngoài rằng ông sẽ không tấn công các cường quốc châu Âu khác để mở rộng Đế chế Pháp. Tuy nhiên, ông quyết tâm theo đuổi một chính sách đối ngoại mạnh mẽ nhằm mở rộng ảnh hưởng của Pháp và cảnh báo rằng ông sẽ không đứng nhìn và cho phép một cường quốc châu Âu khác đe dọa nước láng giềng của mình.
Vào đầu triều đại của mình, ông cũng là người ủng hộ một "nguyên tắc các dân tộc" mới (principe des nationalités) ủng hộ việc thành lập các quốc gia mới dựa trên dân tộc, chẳng hạn như Ý, thay thế cho các đế chế đa quốc gia cũ, chẳng hạn như chế độ quân chủ Habsburg (hay Đế quốc Áo, được biết đến từ năm 1867 với tên gọi Áo-Hung). Về điều này, ông chịu ảnh hưởng từ chính sách của người bác mình, như được mô tả trong Đài tưởng niệm Sainte-Hélène. Trong tất cả các dự án chính sách đối ngoại của mình, ông luôn đặt lợi ích của nước Pháp lên hàng đầu. Napoleon III cảm thấy rằng các quốc gia mới được thành lập trên cơ sở bản sắc dân tộc sẽ trở thành đồng minh và đối tác tự nhiên của Pháp.[78]
Liên minh với Anh và Chiến tranh Crimea (1853–1856)
Với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao Anh và sau này là Thủ tướng, Lãnh chúa Palmerston có mối quan hệ cá nhân thân thiết với các chính khách hàng đầu của Pháp, đặc biệt là Napoleon III. Mục tiêu của Palmerston là thiết lập quan hệ hòa bình với Pháp để Anh có thể rảnh tay ngoại giao ở những nơi khác trên thế giới.[79] Ban đầu, Napoleon có chính sách đối ngoại thân Anh và không muốn làm mất lòng chính phủ Anh, những người mà ông coi tình hữu nghị là quan trọng đối với Pháp. Sau một mối đe dọa ngắn ngủi về việc xâm lược Anh vào năm 1851, Pháp và Anh đã hợp tác trong những năm 1850 với một liên minh trong Chiến tranh Krym và một hiệp ước thương mại quan trọng vào năm 1860.[80]
Tuy nhiên, báo chí vẫn liên tục thổi phồng những lo ngại về chiến tranh. John Delane, biên tập viên của tờ The Times, đã đến thăm Pháp vào tháng 1 năm 1853 và rất ấn tượng trước sự chuẩn bị quân sự của nước này. Ông bày tỏ niềm tin rằng "Louis-Napoleon đã quyết tâm theo đuổi một chính sách đối ngoại tiến bộ".[81] Napoleon III thực sự quyết tâm tăng cường sức mạnh hải quân của đất nước. Chiếc thiết giáp hạm chạy bằng hơi nước đầu tiên được chế tạo chuyên dụng (được đặt tên theo Napoleon I một cách đáng lo ngại) đã được hạ thủy vào năm 1850, và hệ thống phòng thủ của Cherbourg đã được củng cố. Điều này dẫn đến việc mở rộng đê chắn sóng Alderney và xây dựng Pháo đài Clonque.[82]
Ngay từ khi thành lập Đế chế, Napoleon III đã tìm kiếm một liên minh với Anh. Ông đã sống lưu vong ở đó và coi Anh là đối tác tự nhiên trong các dự án mà ông muốn thực hiện. Một cơ hội đã sớm xuất hiện: Đầu năm 1853, Sa hoàng Nikolai I của Nga đã gây áp lực lên chính phủ Ottoman yếu kém, yêu cầu họ trao cho Nga quyền bảo hộ đối với người Cơ đốc giáo ở Balkan cũng như quyền kiểm soát Constantinople và Dardanelles. Đế chế Ottoman, được Anh và Pháp hậu thuẫn, đã từ chối yêu cầu của Nga, và một hạm đội chung Anh-Pháp đã được gửi đến để hỗ trợ Đế chế Ottoman. Khi Nga từ chối rời khỏi các Công quốc Danube mà họ đã chiếm đóng, Anh và Pháp đã tuyên chiến vào ngày 27 tháng 3 năm 1854.[83]
Pháp và Anh mất sáu tháng để tổ chức một cuộc viễn chinh quân sự quy mô lớn đến Biển Đen. Hạm đội Anh-Pháp đã đổ bộ 30 nghìn quân Pháp và 20 nghìn quân Anh lên bán đảo Krym vào ngày 14 tháng 9 và bắt đầu bao vây cảng Sevastopol quan trọng của Nga. Khi cuộc bao vây kéo dài, quân đội Pháp và Anh được tăng cường và quân đội từ Vương quốc Sardegna cũng tham gia, đạt tổng cộng 140.000 quân, nhưng họ đã phải chịu đựng rất nhiều dịch bệnh sốt phát ban, kiết lỵ và dịch tả. Trong suốt 332 ngày bao vây, quân Pháp đã mất 95.000 binh sĩ, trong đó có 75.000 người do bệnh tật. Nỗi đau khổ của quân đội ở Krym đã được che giấu cẩn thận khỏi công chúng Pháp bằng kiểm duyệt báo chí.[84]
Cái chết của Sa hoàng Nikolas I vào ngày 2 tháng 3 năm 1855 và việc ông được thay thế bởi Alexander II đã làm thay đổi cán cân chính trị. Vào tháng 9, sau một cuộc pháo kích dữ dội, quân đội Anh-Pháp gồm 50 nghìn người đã tấn công các vị trí của Nga, và quân Nga buộc phải sơ tán khỏi Sevastopol. Alexander II đã tìm kiếm một giải pháp chính trị, và các cuộc đàm phán đã được tổ chức tại Paris trong tòa nhà mới của Bộ Ngoại giao Pháp trên Quai d'Orsay, từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 8 tháng 4 năm 1856.[83]
Chiến tranh Krym đã bổ sung thêm ba địa danh mới cho Paris: Alma, được đặt theo tên chiến thắng đầu tiên của Pháp trên dòng sông cùng tên; Sevastopol; và Malakoff, được đặt theo tên một tòa tháp ở trung tâm phòng tuyến của Nga bị quân Pháp chiếm giữ. Cuộc chiến đã mang lại hai hệ quả ngoại giao quan trọng: Alexander II trở thành đồng minh của Pháp, và Anh và Pháp đã hòa giải. Vào tháng 4 năm 1855, Napoleon III và Eugénie đến Anh và được Nữ hoàng tiếp đón; đến lượt mình, Victoria và Thân vương Albert đã đến thăm Paris. Victoria là quốc vương Anh đầu tiên làm như vậy sau nhiều thế kỷ.[85]
Thất bại của Nga và liên minh với Anh đã mang lại cho Pháp quyền lực và uy tín ngày càng tăng ở châu Âu. Đây là cuộc chiến tranh đầu tiên giữa các cường quốc châu Âu kể từ khi Chiến tranh Napoléon và Đại hội Viên kết thúc, đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống liên minh đã duy trì hòa bình trong gần nửa thế kỷ. Cuộc chiến cũng chính thức chấm dứt Hiệp ước Hòa bình Châu Âu và Liên minh Tứ cường, hay "Liên minh Waterloo", mà bốn cường quốc còn lại (Nga, Phổ, Áo và Anh) đã thiết lập. Hội nghị Hòa bình Paris năm 1856 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách đối ngoại của Napoleon.[86] Hội nghị này đã khuyến khích Napoleon III thực hiện một chính sách đối ngoại táo bạo hơn nữa ở Ý.[87]
Chiến dịch Ý
Giai đoạn đầu
Tối ngày 14 tháng 1 năm 1858, Napoléon III và vợ mình đã thoát khỏi một vụ ám sát nghiêm trọng mà không để lại vết thương nào. Một nhóm âm mưu đã ném ba quả bom vào cỗ xe ngựa của hoàng gia khi nó đang trên đường đến nhà hát opera. Tám thành viên trong đoàn hộ tống và những người chứng kiến đã thiệt mạng và hơn một trăm người bị thương. Những kẻ chủ mưu đã nhanh chóng bị bắt giữ. Kẻ cầm đầu là một người theo chủ nghĩa dân tộc Ý, Felice Orsini, được hỗ trợ bởi một bác sĩ phẫu thuật người Pháp Simon François Bernard. Họ tin rằng nếu Napoléon III bị giết, một cuộc nổi dậy của phe cộng hòa sẽ ngay lập tức nổ ra ở Pháp và chính phủ cộng hòa mới sẽ giúp tất cả các bang của Ý giành độc lập từ Áo và đạt được sự thống nhất quốc gia. Bernard lúc đó đang ở London. Vì ông là người lưu vong chính trị, Chính phủ Vương quốc Anh đã từ chối dẫn độ ông, nhưng Orsini đã bị xét xử, kết án và hành quyết vào ngày 13 tháng 3 năm 1858. Vụ đánh bom đã thu hút sự chú ý của Pháp, đặc biệt là Napoléon III, vào vấn đề chủ nghĩa dân tộc Ý.[88]
Một phần của Ý, đặc biệt là Vương quốc Sardegna được Vương tộc Savoia cai trị một cách độc lập, nhưng miền Trung bán đảo Ý vẫn do Giáo hoàng (vào thời kỳ này là Giáo hoàng Piô IX) cai trị, trong khi Lombardy, Venice và phần lớn miền Bắc do Đế chế Áo cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân. Các nhà nước khác độc lập trên danh nghĩa (đáng chú ý là Công quốc Parma và Đại công quốc Toscana) nhưng trên thực tế hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Áo vì các vương tộc này đều thuộc chi nhánh triều đại Habsburg-Lorraine cai trị. Napoleon III đã cùng những người yêu nước Ý chiến đấu chống lại người Áo khi còn trẻ và ông có thiện cảm với họ, nhưng Hoàng hậu Eugene, phần lớn chính phủ của ông và Giáo hội Công giáo Pháp lại ủng hộ Giáo hoàng và các chính phủ đương nhiệm. Chính phủ Anh cũng phản đối ý tưởng thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc ở Ý. Bất chấp sự phản đối trong chính phủ, Napoleon III đã làm tất cả những gì có thể để ủng hộ sự nghiệp của Piedmont-Sardegna. Vua của Piedmont-Sardegna, Victor Emmanuel II, được mời đến Paris vào tháng 11 năm 1855 và được đối xử trọng thị như cách triều đình Pháp tiếp đón Nữ hoàng Victoria của Anh.
Bá tước xứ Cavour, Thủ tướng của Piedmont-Sardegna, đã đến Paris cùng Nhà vua và một sứ giả khác trong nỗ lực giành được sự ủng hộ của Napoleon III: người em họ trẻ tuổi của ông, Virginia Oldoini, Bá tước phu nhân xứ Castiglione (1837–1899). Đúng như Cavour hy vọng, bà đã lọt vào mắt xanh của Hoàng đế và trở thành tình nhân của ông. Từ năm 1855 đến năm 1857, bà đã tận dụng cơ hội này để truyền đạt thông điệp và biện hộ cho sự nghiệp thống nhất Ý của triều đình Sardegna.[89]
Vào tháng 7 năm 1858, Napoleon đã sắp xếp một chuyến thăm bí mật của Bá tước xứ Cavour. Trong Hiệp định Plombières, họ đã đồng ý hợp lực và đánh đuổi quân Áo khỏi Ý. Đổi lại, Napoleon III yêu cầu có được lãnh thổ của Công quốc Savoy (vùng đất tổ tiên của Vua Piedmont-Sardegna) và Bá quốc Nice, trước đó đã bị Pháp chiếm sau khi Napoleon sụp đổ năm 1815 và được trả lại cho Piedmont-Sardegna. Cavour phản đối và ông nói rằng Nice là của Ý, nhưng Napoleon đáp lại rằng "đây là những vấn đề thứ yếu. Sẽ có thời gian để thảo luận sau".[90]
Được Napoleon III đảm bảo về sự ủng hộ, Bá tước Cavour bắt đầu chuẩn bị Quân đội Hoàng gia Sardegna cho cuộc chiến chống lại Áo. Napoleon III tìm kiếm sự hỗ trợ ngoại giao. Ông đã tiếp cận Lãnh chúa xứ Derby (Thủ tướng Vương quốc Anh) và chính phủ của ông này; Anh phản đối chiến tranh, nhưng đồng ý giữ thái độ trung lập. Vẫn gặp phải sự phản đối mạnh mẽ trong chính phủ của mình, Napoleon III đề nghị đàm phán một giải pháp ngoại giao với Hoàng đế Franz Joseph I của Áo, lúc đó mới 28 tuổi, vào mùa xuân năm 1858. Người Áo yêu cầu giải giáp Piedmont-Sardegna trước và gửi 30.000 quân đến tăng cường cho các đơn vị đồn trú của họ ở Ý. Napoleon III đáp lại vào ngày 26 tháng 1 năm 1859 bằng cách ký một hiệp ước liên minh với Piedmont-Sardegna. Napoleon hứa sẽ gửi 200.000 quân đến hỗ trợ 100.000 quân từ Piedmont-Sardegna để buộc quân Áo phải rời khỏi miền Bắc bán đảo Ý; đổi lại, Pháp sẽ nhận được Bá quốc Nice và Công quốc Savoy với điều kiện người dân của họ đồng ý trong một cuộc trưng cầu dân ý.[91]
Hoàng đế Franz Joseph, ngày càng mất kiên nhẫn, cuối cùng đã phát động chiến tranh. Vào ngày 23 tháng 4 năm 1859, ông đã gửi tối hậu thư cho chính quyền Piedmont-Sardegna, yêu cầu họ ngừng chuẩn bị quân sự và giải tán quân đội. Ngày 26 tháng 4, Bá tước Cavour bác bỏ các yêu cầu này, và ngày 27 tháng 4, quân đội Áo xâm lược Piedmont.
Đế chế hải ngoại
Năm 1862, Napoleon III đã gửi quân đến Mexico trong nỗ lực thiết lập một chế độ quân chủ đồng minh ở châu Mỹ, đưa Đại công tước Ferdinand Maximilian của Áo lên ngôi với đế hiệu là Maximilian I. Tuy nhiên, Đệ Nhị Đế chế México đã phải đối mặt với sự kháng cự quyết liệt từ chính phủ cộng hòa của Tổng thống Benito Juárez. Sau chiến thắng trong Nội chiến Hoa Kỳ năm 1865, Hoa Kỳ đã nói rõ rằng quân Pháp sẽ phải rời đi. Hoa Kỳ đã gửi 50.000 quân dưới quyền Tướng Philip H. Sheridan đến Biên giới México–Hoa Kỳ và giúp tiếp tế cho Juárez. Quân đội của Napoleon III bị dàn trải rất mỏng; ông đã cam kết 40.000 quân đến Mexico, 20.000 quân đến Rome để bảo vệ Giáo hoàng chống lại những người Ý có âm mưu thống nhất bán đảo, cũng như 80.000 quân khác đồn trú ở Algeria bất ổn. Hơn nữa, Vương quốc Phổ, vừa đánh bại Áo trong Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, là một mối đe dọa sắp xảy ra. Napoleon III nhận ra tình thế khó khăn của mình và rút quân khỏi Mexico vào năm 1866. Maximilian bị lật đổ và xử bắng dù chính phủ cộng hoà đã nhận được nhiều lá thư của các nhân vật nổi tiếng đương thời xin ân xá cho hoàng đế, trong đó có lời thỉnh cầu của Victor Hugo và Giuseppe Garibaldi.[94][95]
Napoleon III cũng ủng hộ một dự án thành lập một vương quốc Ả Rập ở Algeria, liên kết với Pháp, chỉ dựa trên yếu tố văn hóa Ả Rập, gây bất lợi cho các quốc gia khác (Berber, v.v.).[96]
Ở Đông Nam Á, Napoleon III thành công hơn trong việc thiết lập quyền kiểm soát bằng một chiến dịch quân sự hạn chế tại một thời điểm. Trong Chiến dịch Nam Kỳ, ông đã chiếm được Nam Kỳ (phần cực nam của Việt Nam ngày nay, bao gồm cả Sài Gòn) vào năm 1862. Năm 1863, ông thiết lập chế độ bảo hộ đối với Campuchia. Ngoài ra, Pháp còn có phạm vi ảnh hưởng trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở miền Nam Trung Quốc, bao gồm một căn cứ hải quân tại Vịnh Quảng Châu (Quảng Châu Loan).[97] Một cuộc viễn chinh của Pháp tới Triều Tiên cũng được tiến hành để đáp trả vụ sát hại các nhà truyền giáo Pháp, mặc dù cuộc viễn chinh này đã thất bại.
Theo thông tin được cung cấp cho Abdón Cifuentes vào năm 1870, khả năng can thiệp có lợi cho Vương quốc Araucanía và Patagonia chống lại Chile đã được thảo luận trong Hội đồng Nhà nước của Napoleon.[98] Năm 1870, thiết giáp hạm D'Entrecasteaux của Pháp neo đậu tại Corral, Chile khiến Cornelio Saavedra Rodríguez nghi ngờ về một số loại can thiệp của Pháp vào việc chiếm đóng đang diễn ra trên vùng đất của người Mapuche.[99] Một lô hàng vũ khí đã bị chính quyền Argentina tịch thu tại Buenos Aires vào năm 1871, theo báo cáo thì lô hàng này của Orélie-Antoine de Tounens, người được gọi là Vua của Araucanía và Patagonia.[99]
Remove ads
Cuộc sống tại triều đình của Napoleon III
Nghệ thuật thị giác
Chính sách kinh tế xã hội
Chính sách xã hội và cải cách
Chính sách kinh tế
Những năm cuối triều đại
Sức khỏe suy giảm và sự trỗi dậy của Phổ
Tìm kiếm đồng minh và chiến tranh giữa Áo và Phổ
Khủng hoảng Luxembourg
Một cuộc tìm kiếm đồng minh cuối cùng
Ứng cử viên Hohenzollern và điện tín Ems
Thất bại trong Chiến tranh Pháp-Phổ
Bị giam cầm, lưu đày và qua đời
Cuộc sống cá nhân
Di sản
Tước hiệu, phong cách, vinh dự và huy hiệu
Đọc thêm
Chú thích
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads
