Phạm Thế Mỹ

Cố nhạc sĩ Việt Nam From Wikipedia, the free encyclopedia

Phạm Thế Mỹ
Remove ads

Phạm Thế Mỹ (15 tháng 11 năm 1930[a]16 tháng 1 năm 2009) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác nhạc vàng được nhiều người yêu thích, ngoài ra còn viết nhạc phản chiến, nhạc đỏ, nhạc kịch và ca vũ kịch. Ông còn có nghệ danhSông Đà.[1]

Thông tin Nhanh Thông tin nghệ sĩ, Tên gọi khác ...
Remove ads

Cuộc đời

Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sinh năm 1930, là con út trong một gia đình nghèo có đến 13 người con ở An NhơnBình Định. Hai người anh ruột của anh là nhà thơ Phạm Hổ và nhà văn Phạm Văn Ký.

Khi mới được 6 tuổi, ông rời quê nhà để ra Huế ở với người anh Phạm Văn Ký để đi học. Vì anh trai thích nhạc và biết chơi vĩ cầm, nên nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ cũng bắt đầu học nhạc với người anh, 8 tuổi đã chơi thạo mandoline, 12 tuổi chơi được guitar. Sau này về học trung học ở Qui Nhơn, ông còn được học lý thuyết âm nhạc với sư huynh trường dòng tên là Yersin ở trường Gagelin. Năm 14 tuổi, ông đã sáng tác được 1 số ca khúc đơn giản, sau nhờ được bạn bè khuyến khích, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ cố gắng học hỏi thêm nhạc lý sáng tác với một người bạn thân là nhạc sĩ vĩ cầm, nghiên cứu nguyên lý sáng tác từ các nhạc phẩm tiên chiến của Đặng Thế Phong, Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Phạm Duy, Lưu Hữu Phước… để luyện tập khả năng sáng tác.Sau khi học xong và về ở Đà Nẵng, Phạm Thế Mỹ học theo nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác những ca khúc thể loại dân ca mới để kiếm tiền thêm học nhạc. Tại đây ông được học hòa âm với giáo sư Nguyễn Phụng (sau 1955 là hiệu trưởng trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn) và bà Nguyễn Khắc Cung.Tuy nhiên lúc đó các nhà xuất bản nhạc tờ nói rằng thể loại dân ca mới đã lỗi thời, khó bán. Muốn nhạc được xuất bản hay được phát trên đài phát thanh thì phải sáng tác loại mambo, bolero. Đó là lý do mà Phạm Thế Mỹ bắt đầu sáng tác những ca khúc mà sau này được gọi là “dân ca mambo" như Bến Duyên Lành, Lúa Về Đêm Trăng, Tình Mùa Hoa Nở và đặc biệt là Nắng Lên Xóm Nghèo Sau Hiệp định Geneve 1954, ông được tổ chức phân công ở lại miền Nam hoạt động và học tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Từ 1959 đến 1970 ông dạy Việt vănâm nhạc tại các trường trung học tư thục Bồ đề, Tây Hồ, Sao Mai, Bán Công, Nguyễn Công Trứ, Tân Thanh… ở Đà Nẵng.Trong những năm 1965-1966, Phạm Thế Mỹ từng bị bắt giam vì tham gia tích cực phong trào chống chính quyền VNCH. Đó cũng là thời gian ông sáng tác "ca khúc bất tử" Bông Hồng Cài Áo. Ra tù, ông sáng tác các bài hát như Hoa Vẫn Nở Trên Đường Quê Hương, Người Về Thành Phố, Rạng Đông Trên Quê Hương Việt Nam, Ngựa Hồng Trên Đồi Cỏ Non, Thương Quá Việt Nam… được phổ biến trong phong trào học sinh – sinh viên Sài Gòn. Từ năm 1970 đến 1975, ông là trưởng phòng Văn-Mỹ-Nghệ của Viện Đại học Vạn Hạnh. Trong thời gian công tác tại Viện Đại học Vạn Hạnh, ông quen với một nữ sinh viên của trường là Nguyễn Thị Diệu Lý, họ nảy sinh tình cảm và kết hôn vào năm 1975. Sau năm 1975, Phạm Thế Mỹ công tác tại Phòng Văn hóa – Thông tin Quận 4. Ông bắt đầu sáng tác những bài hát nhạc đỏ như: “Nhớ ơn Bác, nhớ ơn Đảng”, “Thắm đượm duyên quê,” “Lêna Belicova”… Sau khi nghỉ hưu, ông sống kín đáo tại một căn nhà chung cư ở Quận 4. Cuộc sống khó khăn của Phạm Thế Mỹ thời gian đó được trang báo giaoduc.edu.vn kể lại như sau:

Sau một thời gian dạy học, Nhà nước cấp cho bà Diệu Lý (vợ Phạm Thế Mỹ) một căn nhà ở Tân Thuận, nhưng chỉ ở đó một thời gian vì không tiện trong việc đi lại ca hát, làm việc cho cả hai. Vì thế, lãnh đạo Nhà Văn hóa Q.4 tạo điều kiện cho vợ chồng ông về ở trong một căn phòng tạm của Nhà Văn hóa. Trong khi bao người mong được có chỗ an cư thì ngược lại nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ bàn với vợ trả căn nhà ấy. Bà Diệu Lý nhớ lại: “Thời gian đó đồng lương nghề giáo không đủ sống, tối đi ca hát nhưng bữa ăn chỉ có cơm với tương, chao và rau. Anh Mỹ bảo mình cũng chưa đến nỗi thiếu chỗ ở, thôi thì trả lại để Nhà nước cấp cho người khác khó khăn hơn mình”.

Thời gian sống ở căn phòng tạm của Nhà Văn hóa Q.4 là khi ông cho ra đời nhiều sáng tác nhất. Cường độ làm việc của ông gấp đôi, thậm chí gấp 3 lần nhạc sĩ khác. Suốt một thời gian dài như thế, sức khỏe ông ngày càng sa sút. Ông mắc đột quỵ, Bệnh tình chưa lành hẳn, bác sĩ khuyên ông nên dành thời gian để nghỉ ngơi nhưng ông lại lao vào viết nhạc. Vì thế, ông lại bị tai biến nặng. Có thời kỳ ông không thể tự đi lại được. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ mất vào lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 1 năm 2009, sau thời gian dài bị bệnh, hưởng thọ 79 tuổi.[2]

Remove ads

Sáng tác

  • Áo lụa vàng
  • Bão rớt
  • Bến duyên lành
  • Bóng mát
  • Bóng tre xanh
  • Bông hồng cài áo (ý văn Thích Nhất Hạnh)
  • Bông trắng cài áo
  • Buổi chiều quê hương
  • Chiếc lá rơi
  • Chiều đến thăm anh
  • Cho cây rừng còn xanh lá (ý Nguyễn Ngọc Lan)
  • Chuyến tàu về quê ngoại
  • Còn gì cho em
  • Dáng hồng
  • Dựng lại quê hương
  • Đan áo mùa xuân
  • Đàn chim trắng
  • Đôi mắt trẻ thơ
  • Đưa em về quê hương
  • Đường về hai thôn
  • Hoa vẫn nở trên đường quê hương
  • Hòa bình ơi hãy đến
  • Hỡi hồn mẹ Việt Nam
  • Huế của ta
  • Lêna Belicova
  • Lúa đẹp chiều hôm
  • Lúa về đêm trăng
  • Mai này tôi trở lại (Bỏ làng ra đi)
  • Màu áo hoa sim
  • Mặt Trời vừa thức dậy
  • Mây đầu núi
  • Mẹ xưa
  • Một mình
  • Một sáng bình yên
  • Mưa trên cành yêu đương
  • Nắng lên xóm nghèo
  • Ngõ chiều
  • Ngựa hồng trên đồi cỏ non
  • Người về thành phố
  • Người yêu và con chim sâu nhỏ
  • Nhạc buồn đêm sao
  • Những ngày xưa thân ái
  • Những người không chết
  • Nước sông nào chẳng mát chẳng ngon
  • Qua bến đò xưa
  • Rạng đông trên quê hương Việt Nam
  • Rừng cây trút lá
  • Sẽ qua đi ngày gió lớn
  • Thắm đượm duyên quê
  • Thuyền hoa
  • Thương quá Việt Nam
  • Tiếng chim vườn cũ
  • Tình mùa hoa nở
  • Tóc mây
  • Trang sách mở ra
  • Trang sử mới
  • Trăng tàn trên hè phố
  • Vẫn Huế ngày xưa
  • Vườn dâu lá mới
  • Xin mẹ hãy ngủ yên

Các tuyển tập nhạc Phạm Thế Mỹ đã xuất bản gồm có:

  • Hòa bình ơi, hãy đến (in chung Luân Hoán Lê Vĩnh Thọ, 1969)
  • Trái tim Việt Nam (Đối Diện, 1971)
  • Cho Trái Đất này vui (Nhà xuất bản Âm nhạc, 1990)
  • Trường ca Phạm Thế Mỹ (Nhà xuất bản Âm nhạc, 1996)
  • Trang sử mới (sinh viên Phật tử xuất bản tại Pháp)

Ông sáng tác các trường ca như: Lửa thiêng (1963), Hàn giang dậy sóng (1960), Con đường trước mặt (1967), Những dòng sông anh em (1974), Thêm một lần hoa nở (Đại học Vạn Hạnh xuất bản), Những trang sử Việt Nam, Con đường thế kỷ, Gió Củ Chi, Thành phố trăng tròn,... (sau 1975) và tổ khúc Sự sống (1996).

Ngoài ra ông còn viết nhạc kịch, vũ kịch như:

  • Vũ kịch: Kim Trọng Thúy Kiều (1962–1966).
  • Tiểu ca kịch: Hoa bướm và thiếu nữ (1960), Nước mắt người yêu (1961).
  • Nhạc kịch: Sắc lụa trữ la (1958–1960), Tiếng hát dậy từ lòng đất, Miếu âm hồn.
Remove ads

Cước chú

  1. Có tài liệu là 1932[cần dẫn nguồn]

Tham khảo

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads