Quốc huy Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
quốc huy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Quốc huy Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tiếng Trung: 中华人民共和国 国徽; chữ Hán phồn thể: 中華人民共和國 國徽, bính âm: Zhonghua Renmin gònghéguó Guohui) là biểu tượng quốc gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và chứa hình ảnh Cổng Thiên An Môn trong một vòng tròn màu đỏ. Phía trên Cổng Thiên An Môn là năm ngôi sao trên quốc kỳ, với bốn ngôi sao năm cánh nhỏ bao quanh một ngôi sao năm cánh lớn tạo thành hình bán nguyệt. Đường viền ngoài của vòng tròn màu đỏ thể hiện những bó lúa mì và những bó lúa bên trong, tượng trưng cho công nhân nông nghiệp. Ở giữa phần dưới của đường viền là một bánh răng cưa tượng trưng cho công nhân công nghiệp..
Quốc huy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được tạo ra bởi một nhóm thiết kế gồm Lương Tư Thành, Lâm Huệ Nhân, Lý Tông Cẩm, Mặc Tông Giang, Chu Trường Trung và những người khác từ Khoa Kiến trúc của Đại học Thanh Hoa. Biểu tượng được đề xuất tại kỳ họp thứ hai của Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc khóa I vào ngày 23 tháng 6 năm 1950 và được thông qua tại kỳ họp thứ tám của Hội đồng Chính phủ Nhân dân Trung ương vào ngày 28 tháng 6 cùng năm. Địa vị pháp lý của phiên bản quốc huy này sau đó đã được ghi vào hiến pháp quốc gia.
Quốc huy chính thức tượng trưng cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc kể từ Phong trào Ngũ Tứ và liên minh của giai cấp vô sản đã thành công trong việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bánh răng và bông lúa tượng trưng cho công nhân và nông dân Trung Quốc, Thiên An Môn tượng trưng cho tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Quốc, và năm ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết vĩ đại của nhân dân toàn quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Remove ads
Lịch sử
Trung Hoa Dân Quốc
Thời kỳ Bắc Dương
Đế quốc Trung Hoa dưới thời nhà Thanh do người Mãn Châu lãnh đạo không có quốc huy chính thức, nhưng lá cờ có hình con rồng xanh trên nền vàng trơn với mặt trời đỏ của con quạ ba chân ở góc trên bên trái. Nó trở thành quốc kỳ đầu tiên của Trung Quốc và thường được gọi là Cờ Rồng Vàng.

Sau khi chế độ Mãn Châu kết thúc, các nhà lãnh đạo cho rằng cần thiết phải có những biểu tượng quốc gia mới để đại diện cho hoàn cảnh đã thay đổi. Các nhà văn nổi tiếng Lỗ Tấn, Tiền Đạo Tôn và Từ Thủ Thượng thuộc Bộ Giáo dục được giao nhiệm vụ thiết kế một quốc huy mới. Quốc huy được trình làng vào ngày 28 tháng 8 năm 1912 và được thông qua làm quốc huy vào tháng 2 năm 1913. Tổng thống-Hoàng đế Viên Thế Khải tiếp tục sử dụng quốc huy này trong thời gian trị vì ngắn ngủi của ông từ năm 1915 đến năm 1916. Quốc huy này dựa trên các biểu tượng cổ xưa của Thập Nhị Đồ Trang Trí. Những biểu tượng này lần đầu tiên được nhắc đến như đã có từ thời xa xưa trong Kinh Thư của Đế Thuấn, một trong Tam Hoàng Ngũ đế huyền thoại. Truyền thuyết truyền miệng cho rằng ông sống vào khoảng năm 2294 đến 2184 trước Công nguyên.[1] Theo sách, hoàng đế mong muốn các biểu tượng này được sử dụng trên trang phục chính thức của nhà nước.
Thời Quốc gia

Cuộc Bắc phạt do Tướng Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng lãnh đạo đã lật đổ chính phủ Bắc Dương, một chính quyền chia rẽ nhưng được quốc tế công nhận, vào năm 1928. Sự kiện này mở ra một nhà nước độc đảng dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, được gọi là Thập kỷ Nam Kinh. Quốc huy do đó được thay thế bằng biểu tượng của đảng Quốc Dân Đảng "Thanh Thiên, Bạch Nhật". Lá cờ "Thanh Thiên, Bạch Nhật, Mãn Địa Hồng" vẫn là quốc kỳ của Trung Hoa Dân Quốc cho đến ngày nay. Trong thời kỳ này, dưới sự bảo trợ chính trị của Quốc Dân Đảng, lá cờ "Thanh Thiên, Bạch Nhật" có cùng tầm quan trọng với lá cờ Trung Hoa Dân Quốc. Một bức tường chung được treo cờ Quốc Dân Đảng bên trái và cờ Trung Hoa Dân Quốc bên phải, mỗi lá cờ nghiêng một góc với chân dung Quốc phụ Tôn Dật Tiên được treo ở giữa. Sau khi Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được ban hành, lá cờ đảng đã được gỡ bỏ khỏi bức tường và quốc kỳ được chuyển vào giữa.
Kể từ khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc chuyển đến Đài Loan, đặc biệt là trong những năm sau khi thiết quân luật kết thúc, lá cờ Quốc Dân Đảng đã phần nào mất đi sự nổi bật. Tuy nhiên, nó vẫn thường được nhìn thấy trên các tòa nhà của đảng Quốc Dân Đảng trong các cuộc mít tinh chính trị và các cuộc họp khác của Quốc Dân Đảng và Liên minh Phiến lam.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa


Chính phủ cộng sản đầu tiên ở Trung Quốc, được gọi là Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, đã thông qua biểu tượng này vào năm 1934. Biểu tượng bao gồm một búa liềm trên một quả địa cầu, và các bông lúa được đặt dưới và ở cả hai mặt của trái đất. Phía trên trái đất và ngôi sao năm cánh có dòng chữ "Cộng hòa Xô viết Trung Hoa" ở trên cùng, và dòng chữ "Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!" ở dưới cùng.
Ngày 10 tháng 7 năm 1949, chính phủ đã tổ chức một cuộc thi thiết kế quốc huy công khai, tuy nhiên không có mẫu thiết kế nào đạt yêu cầu. Do đó, vào ngày 27 tháng 9 năm 1949, Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc đã quyết định mời các nhà thiết kế đề xuất quốc huy và hai nhóm từ hai trường đại học đã được chọn vào tháng 9 năm 1949. Ba đề xuất đã được chọn để thảo luận vòng đầu tiên:
- Các nhà thiết kế từ Học viện Mỹ thuật Trung ương Trung Quốc, Trương Định, Trương Quang Vũ, Chu Linh Chiếu và Chung Linh, đã đưa ra đề xuất của họ với 5 biến thể vào ngày 25 tháng 9 năm 1949. Biểu tượng của thiết kế đầu tiên của họ là: Ngôi sao đỏ tượng trưng cho Chủ nghĩa Cộng sản và ĐCSTQ. Bánh răng và lúa mì/gạo tượng trưng cho sự thống nhất của công nhân công nghiệp và nông dân. Trái đất đang mọc với Trung Quốc màu đỏ tượng trưng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và lý tưởng cách mạng thế giới đối với các nước châu Á. 31 tia sáng phía sau trái đất tượng trưng cho 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh vào thời điểm đó. Tên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được viết trên dải ruy băng màu đỏ bên dưới[2] Thiết kế dựa trên thiết kế biểu tượng của Hiến chương Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Hoa và chịu ảnh hưởng của huy hiệu xã hội chủ nghĩa của Khối Đông Âu.
- Các nhà thiết kế từ Khoa Kiến trúc của Đại học Thanh Hoa, Lương Tư Thành, Lâm Huệ Nhân, Mặc Tông Giang, Chu Trường Trung, Lý Tông Cẩm và Cao Trang, đã trình bày đề xuất của họ vào ngày 30 tháng 10 năm 1949. Theo đề xuất của họ, thiết kế là sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống Trung Quốc và lý tưởng Cách mạng Dân chủ Mới của Mao. Thiết kế mô phỏng phong cách gương thời nhà Hán, tượng trưng cho sự sáng sủa. Đĩa được làm bằng ngọc bích, biểu tượng của hòa bình và thống nhất. Các họa tiết chạm khắc trang trí trên đĩa theo phong cách nhà Đường. Những ngôi sao từ quốc kỳ và một bánh răng cưa được đặt ở giữa đĩa, xung quanh là lúa mì, tượng trưng cho sự thống nhất của giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội. Dải ruy băng đỏ buộc một chiếc nhẫn ngọc bích nhỏ hơn, tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Trung Quốc.[3]
- Đề xuất khác của Trương Định, Trương Quang Vũ, Chu Linh Chiêu là mô tả phối cảnh cổng Thiên An Môn.
- Vòng đầu tiên đề xuất quốc huy
- Đề xuất của Học viện Mỹ thuật Trung ương Trung Quốc, ngày 25 tháng 9 năm 1949
- Đề xuất của Đại học Thanh Hoa, ngày 30 tháng 10 năm 1949

Các thành viên của Ủy ban Điều lệ đầu tiên của Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc đã thảo luận về ba đề xuất này vào ngày 10 tháng 6 năm 1950. Kết quả của cuộc thảo luận là đề xuất của Học viện Mỹ thuật Trung ương Trung Quốc quá sặc sỡ để được coi là thương hiệu, và đề xuất của Đại học Thanh Hoa bị coi là tư sản do sử dụng các biểu tượng truyền thống. Ủy ban đề xuất các nhóm bao gồm Cổng Thiên An Môn, một biểu tượng của cách mạng Trung Quốc, nơi diễn ra Phong trào Ngũ Tứ và lễ thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949.[4]
Sau đó, hai nhóm tiếp tục làm việc trên vòng đề xuất thứ hai. Các đề xuất vòng hai của Đại học Thanh Hoa dựa trên thiết kế tiêu chuẩn của Cổng Thiên An Môn trên huy hiệu, với màu đỏ và vàng được chọn làm màu chủ đạo.[5]
- Đề xuất vòng 2 về quốc huy
- Đề xuất của Học viện Mỹ thuật Trung ương Trung Quốc Số 1 - 15 tháng 6 năm 1950
- Đề xuất của Học viện Mỹ thuật Trung ương Trung Quốc Số 2
- Đề xuất của Đại học Thanh Hoa Số 1
- Đề xuất của Đại học Thanh Hoa Số 2
- Proposal of Tsinghua University No.3
- Đề xuất của Đại học Thanh Hoa
Tại cuộc họp Ủy ban Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc ngày 15 tháng 6, các đề xuất của Đại học Thanh Hoa đã được chọn và Ủy ban đề xuất "Kết hợp thiết kế của số 1 và số 3 với vành ngoài của số 1 và nội dung của số 3".[6] Đại học Thanh Hoa đã trình bày thiết kế mới của mình và đề xuất của họ đã được Chính phủ Nhân dân Trung ương lựa chọn và chính thức công nhận là quốc huy vào ngày 20 tháng 9 năm 1950. Thiết kế được chọn đã được Cao Trang tiếp tục chuẩn hóa và đơn giản hóa, và được xác nhận vào ngày 18 tháng 8 năm 1950.[7]
- Đề xuất được chọn của quốc huy
- Thiết kế ban đầu. Ngày 17 tháng 6 năm 1950
- Bản phác thảo thiết kế ban đầu. Ngày 20 tháng 6 năm 1950
- Thiết kế ban đầu. Ngày 20 tháng 6 năm 1950
Remove ads
Miêu tả
Trên quốc huy có năm ngôi sao được có trên quốc kỳ quốc gia này. Đại diện ngôi sao lớn nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong khi bốn ngôi sao nhỏ hơn Đại diện cho bốn tầng lớp xã hội theo quy định tại Chủ nghĩa Mao. Biểu tượng này được miêu tả như là "Bao gồm các mô hình của lá cờ quốc gia." Những yếu tố này được mô tả như sau:[8]
... Màu đỏ của lá cờ tượng trưng cho cuộc cách mạng và màu vàng của những ngôi sao vàng rực rỡ những tia toả ra từ các vùng đất đỏ rộng lớn. Thiết kế của bốn ngôi sao nhỏ hơn bao quanh một lớn hơn một tượng trưng cho sự đoàn kết của người Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc
—Niên giám Trung Quốc 2004[9]
Theo "Mô tả Quốc huy Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" (中华人民共和国国徽图案说明), những yếu tố này kết hợp lại tượng trưng cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc kể từ Phong trào Ngũ Tứ và liên minh của giai cấp vô sản đã thành công trong việc thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[10]
Remove ads
Người thiết kế
Người thiết kế Quốc huy là Lâm Huy Nhân (1904-1955), trước đây gọi là Huy Âm, người Phúc Kiến, kiến trúc sư, nhà văn, nhà thơ phái Trăng non.
Bà sinh ngày 10 tháng 6 năm 1904 tại Mân Hậu, Phúc Kiến, trong một gia đình trí thức quan lại. Cha của bà là Lâm Trường Dân, đã sớm học ở Nhật và là một nhân vật phái mới. Năm 1916 đến Bắc Kinh học Trung học nữ sinh Bồi Hoa, Bắc Kinh. Tháng 4 đến tháng 9 năm 1920 theo cha đi du lịch châu Âu, đã đến London, Paris, Geneva, Rome, Frankfurt, Berlin, Brussels và những nơi khác. Cũng trong năm đó, bà đã vào học tại trường nữ sinh Mary. Bà đã gặp Từ Chí Ma ở Học viện Kinh tế. Năm 1921, bà trở lại trường trung học nữ Bồi Hoa. Năm 1923 đã tham gia các hoạt động Câu lạc bộ Trăng non. Năm 1924 học tập tại Mỹ, vào học Học viện Mỹ thuật của Trường Đại học Pennsylvania, và khóa học tự chọn về kiến trúc. Năm 1927 bà tốt nghiệp và nhận được bằng Cử nhân Mỹ thuật. Cũng năm đó, bà vào học Học viện Sân khấu thuộc Đại học Yale. Tháng 3 năm 1928, bà và Lương Ân Thành đã kết hôn tại Ottawa, Canada. Sau khi kết hôn, bà đã sang châu Âu để nghiên cứu ngành kiến trúc. Cũng tháng 8 năm đó, bà đã trở về nước. Vào sáng sớm ngày 01 tháng 4 năm 1955, sau 15 năm tranh đấu ngoan cường với căn bệnh lao, bà đã qua đời, chỉ mới 51 tuổi.
Lâm Huy Nhân đã viết nhiều, bao gồm văn xuôi, thơ, tiểu thuyết, kịch, dịch thuật, thư tín và các tác phẩm khác, là các kiệt tác, mà tiêu biểu là “Bạn là ngày tháng Tư trần thế”, cuốn tiểu thuyết “99 độ” v.v.. Tập thơ xuất bản bao gồm “Thơ Lâm Huy Nhân” (1985) v.v..
Dựng hình
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:
Luật Quốc huy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định tiêu chuẩn về quốc huy. Tiêu chuẩn quốc gia của Trung Quốc: GB 15093-2008 quy định cụ thể về kết cấu, chất liệu và màu sắc của quốc huy.
Biểu tượng thành phố và Đặc khu hành chính
Trước khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp quản Trung Hoa đại lục, Trung Hoa Dân Quốc đã yêu cầu các tỉnh tự thiết kế biểu tượng riêng. Cho đến nay, chỉ có hai biểu tượng được sử dụng. Ngày 15 tháng 4 năm 1985, thành phố Thái Nguyên, Sơn Tây chính thức công bố biểu tượng của mình, trở thành thành phố đầu tiên tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có biểu tượng thành phố. Hồng Kông và Ma Cao đều có biểu tượng riêng. Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc đã thông qua việc tiêu chuẩn hóa việc sử dụng biểu tượng của hai đặc khu hành chính này. Theo luật pháp Trung Quốc kể từ tháng 11 năm 1997, chỉ Hồng Kông và Ma Cao mới được phép có biểu tượng riêng, và các địa phương khác có biểu tượng riêng sẽ phải ngừng sử dụng biểu tượng của mình.[11] Nhưng luật này đã bị bỏ qua vào năm 2011 khi thành phố Thành Đô chọn Chim mặt trời vàng.[12]
Thành phố
Đặc khu hành chính
Remove ads
Các biểu tượng trong lịch sử
- Ngọc tỷ truyền quốc triều Minh.
- Ngọc tỷ truyền quốc triều Thanh.
- Thái Bình Thiên Quốc (1851–1864)
- Quốc huy của Trung Hoa Dân Quốc (1912–1927) và Đế quốc Trung Hoa (1915–1916)
- Biểu tượng Thanh Thiên Bạch Nhật của Trung Hoa Dân Quốc (1928–nay) và Huy hiệu Không quân Trung Hoa Dân Quốc (1991–nay)
- Huy hiệu tròn của Không quân Trung Hoa Dân Quốc (1928–1991)
- Huy hiệu tròn của Không quân Trung Hoa Dân Quốc (1928–1991), phiên bản sáng
- Biểu tượng của Đài Bắc Trung Hoa được sử dụng trong Thế vận hội Olympic (1981–nay)
- Biểu tượng của Trung Hoa Dân Quốc với văn bản bao quanh như được mô tả trên hộ chiếu Đài Loan (2021–nay)
- Quốc huy của Cộng hòa Xô viết Trung Hoa (1934–1937)
- Chính phủ tự trị Bắc Sơn Tây (1937–1939)
- Mengjiang (1939–1945)
- Quốc huy của Mãn Châu Quốc (1932–1945)
- Shanghai International Settlement (pre WWI)
- Biểu tượng của Chính phủ cải tổ quốc gia Trung Hoa Dân Quốc (1940–1945)
- Quốc huy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1950–nay)
Remove ads
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads
