Tổng thống

tên gọi của nguyên thủ quốc gia của hầu hết các nước cộng hoà From Wikipedia, the free encyclopedia

Tổng thống
Remove ads

Tổng thốngnguyên thủ quốc gia và là nhà lãnh đạo cao nhất của hầu hết các quốc gia theo thể chế cộng hòa cũng như theo hệ thống tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tự do. Cũng giống như thủ tướng, quyền hành và phạm vi của họ phụ thuộc vào những quy định được đưa ra từ tổ chức lập pháp cao nhất của các quốc gia đó.

Thumb
Abraham Lincoln, tổng thống Hoa Kỳ thứ 16 (tại nhiệm 1861–1865).

Tổng thống được bầu ra qua sự lựa chọn của người dân một cách trực tiếp hay gián tiếp, theo hiến pháp của một quốc gia. Phạm vi quyền lực của họ nhiều khi vượt xa hơn những quy định thông thường, ví dụ như họ sẽ được đề cử làm tổng tư lệnh của lực lượng vũ trang quốc gia nếu họ nhận được sự ủng hộ lớn trong quân đội.

Tổng thống trong nhiều thể chế cộng hòa khác nhau có thể có những quyền hạn khác nhau. Ở cộng hòa đại nghị, tổng thống thường có quyền hành pháp giới hạn và mang tính tượng trưng, quyền lực thường nằm ở thủ tướngquốc hội. Mặt khác, cộng hòa tổng thống chếcộng hòa bán tổng thống chế có tổng thống với quyền hạn cao hơn, có thể kiêm nhiệm chức vụ của người đứng đầu chính phủ.

Trong các ngôn ngữ châu Âu, như tiếng Anhtiếng Pháp, hai từ tổng thốngchủ tịch nước đều lần lượt được dịch là PresidentPrésident, nhưng trong các ngôn ngữ Đông Á, như tiếng Hán Quan thoại, tiếng Quảng Châu, tiếng Hàn, tiếng Việttiếng Nhật lại có sự khác biệt giữa 2 từ này.

Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới có nguyên thủ quốc gia là Tổng thống (ngoại trừ một số quốc gia xã hội chủ nghĩa).

Tổng thống có thể là người không theo đảng phái hoặc cũng có thể là người theo đảng phái. Họ là những cá nhân được nhân dân bầu ra và phải được sự chấp thuận của Quốc hội nên họ có những quyền lợi cơ bản sau:

  • Bổ nhiệm và bãi nhiệm các thẩm phán tòa án tối cao
  • Trưng cầu dân ý
Remove ads

Lịch sử

Thumb
George Washington, Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (tại nhiệm 1789-1797) và cũng là người đầu tiên nắm giữ chức vụ này.
Thumb
Louis-Napoléon Bonaparte, Tổng thống Cộng hoà Pháp đầu tiên (tại nhiệm 1848-1852) và là Hoàng đế Pháp (tại vị 1852- 1870) với đế hiệu Napoléon III.

Chức vụ Tổng thống (President) được nhắc đến và được áp dụng chính thức lần đầu tiên trong Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Trên thực tế, Nhà nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã được thành lập từ năm 1776, sau khi 13 khu thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Anh. Cho đến 1787, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa thể tách rời hoàn toàn toàn khỏi Quốc hội Lục địa để trở thành một nhánh hành pháp mạnh mẽ và độc lập. Người đứng đầu Quốc hội Lục địa vào lúc đó được gọi là Chủ tịch Quốc hội Lục địa. Cả Chủ tịch Quốc hội Lục địa và Tổng thống Hoa Kỳ trong tiếng Anh đều được gọi là President of the United States. Tuy vậy, Chủ tịch Quốc hội Lục địa có quá ít quyền lực để có thể coi là nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp Hoa Kỳ, được ban hành năm 1787, đã xác lập chức vụ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (tiếng Anh: President of the United States). George Washington là người đầu tiên nắm giữ chức vụ này. Vì vậy có thể coi Mỹ là cái nôi của chức vụ Tổng thống.

Sau Hoa Kỳ, các nước Mỹ Latinh (các khu thuộc địa cũng đứng lên giành độc lập. Dưới sự lãnh đạo của những nhà cách mạng lớn như Simón Bolívar hay José de San Martín, các khu thuộc địa như Colombia, Venezuela, Ecuador, Peru, Bolivia, Chile, Argentina đã đánh đuổi thực dân Tây Ban Nha và tuyên bố độc lập.[1] Do ảnh hưởng bởi Cách mạng Hoa Kỳ, các quốc gia mờ này cũng chọn Tổng thống (tiếng Tây Ban Nha: Presidente de la República) làm chức danh nguyên thủ quốc gia. Ví dụ như Simón Bolívar từng làm Tổng thống của Venezuela, của Colombia, của Bolivia, của Peru.

châu Âu, khác với châu Mỹ, cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 sau khi bãi bỏ chế độ quân chủ năm 1792, và thành lập nền Đệ nhất Cộng hoà Pháp, không thành lập chức vụ Tổng thống, chỉ có các chính phủ lâm thời của các đảng phái chính trị như Girondin hay Jacobin (như Quốc ước (La Convention nationale) hay Đốc chính (La régime directoire). Sau Hội nghị Vienna 1815, chế độ quân chủ Pháp được phục hồi. Cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830 chỉ thành lập chế độ quân chủ lập hiên PhápBỉ, không thành lập chế độ cộng hoà. Đến phong trào Cách mạng 1848, dẫn đến sự ra đời của nền Đệ nhị Cộng hoà Pháp. Nền cộng hoà mới này cũng áp dụng Tổng thống làm chức vụ dành cho nguyên thủ quốc gia, Louis-Napoleon Bonaparte trở thành Tổng thống Cộng hòa Pháp (tiếng Pháp: Président de la République) vào tháng 12-1848 sau Cách mạng Tháng Hai lật đổ chế độ quân chủ Pháp, trước khi ông này bãi bỏ nền Đệ nhị Cộng hoà Pháp năm 1852, tự phong Hoàng đế và thiết lập chế độ độc tài. Sau khi thua trong Chiến tranh Pháp-Phổ, chế độ độc tài của Napoléon III bị bãi bỏ, nền Đệ tam Cộng hoà Pháp được thành lập, ban đầu nguyên thủ quốc gia là Quốc trưởng lâm thời (tiếng Pháp: Président du gouvernement de la Défense nationale, hay Chủ tịch Chính phủ Vệ quốc), do Jules Trochu nắm giữ, rồi sau đó chức Tổng thống Cộng hoà được khôi phục, giao cho Adolphe Thiers. Đến năm 1875, Hiến pháp

Đến thế kỷ 20, ở châu Âu, sau Thế chiến I, nhiều chế độ quân chủ châu Âu lớn (Đức, Áo-Hung Habsbourg, Ottoman, Nga,...) sụp đổ, dẫn đến sự hình thành của các quốc gia Cộng hoà mới (Đệ nhất Cộng hoà Đức, Đệ nhất Cộng hoà Ba Lan, Đệ nhất Cộng hoà Tiệp Khắc, Đệ nhất Cộng hoà Lithuania, Đệ nhất Cộng hoà Latvia, Đệ nhất Cộng hoà Estonia, Cộng hoà Phần Lan, Đệ nhất Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ,...), các quốc gia này cũng sử dụng chức danh Tổng thống làm nguyên thủ, như Đức trong giai đoạn 1918-1933, chức vụ Tổng thống được gọi là Tổng thống Đức Quốc (tiếng Đức: Reichspräsident) (Reich là quốc hiệu của Đức thời 1871-1945), sau khi Adolf Hitler thiết lập chế độ độc tài đơn đảng thì chức này bị bãi bỏ và thay bằng Führer (Lãnh tụ hay Quốc trưởng Tối cao, trên thực tế là nhà độc tài) do Hitler nắm. Ở Ba Lan, sau khi giành độc lập khỏi NgaĐức năm 1918, ban đầu nguyên thủ quốc gia là Quốc trưởng lâm thời (tiếng Ba Lan: Naczelnik Państwa), do Thống chế Jozef Pilsudski nắm, sau khi Hiến pháp được thành lập năm 1922 thì chức Tổng thống Cộng hoà (tiếng Ba Lan: Prezydent Rzeczypospolitej) được thành lập. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, cuộc Cách mạng giành độc lập (1919-1923) do Mustafa Kemal Atatürk lãnh đạo giành thắng lợi, nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập năm 1923, chức vụ Tổng thống Cộng hoà (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Cumhuriyeti Cumhurbaşkanı) được thành lập và do Mustafa Kemal Atatürk nắm giữ đến khi ông này qua đời năm 1938. Còn ở Nga, sau khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ sau Cách mạng tháng Hai năm 1917, Chính phủ lâm thời được thành lập, do Aleksandr Kerensky làm Chủ tịch, nhưng sau đó chính phủ này nhanh chóng bị Đảng Cộng sản (Bolshevik) do Vladimir Lenin cầm đầu lật đổ vào tháng 10/1917, thành lập Chính phủ lâm thời Nga Xô-viết, sau Nội chiến Nga (1918-1921), Liên Xô được thành lập trên sự liên hiệp giữa Nga Xô-viết, Ukraine Xô-viết, Byelorussia Xô-viếtNgoại Caucasus Xô-viết, trở thành hình mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa độc đảng đầu tiên trên thế giới sau Thế chiến I. Sau khi Hitlerchế độ Đức Quốc xã bị tiêu diệt, gần một nửa các quốc gia châu Âu trở thành các nhà nước xã hội chủ nghĩa đơn đảng (Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hungary, Romania, Bulgaria,...), nhưng nguyên thủ quốc gia ban đầu đa phần vẫn là Tổng thống (tiếng Pháp hay tiếng Anh ban đầu vẫn dịch là "Président de la République" hoặc "President of the Republic"), nhưng khi dịch sang ngôn ngữ của các nước đồng chế độ ở Đông Á (Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Bắc Việt Nam, Bắc Triều Tiên,...) thì đa phần gọi là "Chủ tịch nước", nhưng do thi hành chế độ độc đảng nên hệ thống chính trị của các nước này thực quyền chủ yếu nằm ở Bộ Chính trịTổng Bí thư, đến khoảng thập niên 1960s, thì đa số các quốc gia khu vực này, chịu ảnh hưởng bởi Liên Xô, nhiều nước đổi chức danh từ "Tổng thống" thành "Chủ tịch Hội đồng Nhà nước".

Còn ở châu Á, từ cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX, Nhật Bản là quốc gia hiện đại đầu tiên theo mô hình châu Âu nhờ cuộc Duy tân Minh Trị, chính giới trí thức Nhật Bản giai đoạn này là những người đầu tiên dịch các thuật ngữ, khái niệm chính trị Tây phương sang ngôn ngữ Đông Á (như constitution->hiến pháp, président->tổng thống, parlement->nghị viện, assemblée nationale->quốc hội,...) song vẫn theo mô hình quân chủ với Nhật hoàng nắm quyền lực lớn, còn Trung QuốcViệt Nam thì bị các nước tư bản-đế quốc châu Âu xâu xé hoặc chiếm làm thuộc địa. Cuộc Cách mạng Tân Hợi lật đổ Đế quốc Đại Thanh, thành lập Trung Hoa Dân Quốc - quốc gia Trung Quốc hiện đại theo mô hình châu Âu, Chính phủ lâm thời được thành lập, do Tôn Trung Sơn làm Tổng thống lâm thời, sau đó chức vụ Tổng thống được bàn giao cho Viên Thế Khải - người sẽ tự phong Hoàng đế ít lâu sau đó. Sau Thế chiến II, Nhật Bản đầu hàng, quân Liên Xô tràn vào chiếm đóng Mãn ChâuBắc Triều Tiên, thành lập nước CHDCND Triều Tiên, theo chế độ cộng sản, Mỹ chiếm đóng Nam Triều Tiên, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc, với chế độ tổng thống mô phỏng theo mô hình Trung QuốcMỹ, trong khi đó, Trung Quốc ban hành Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc năm 1948, tái xác lập chức vụ Tổng thống vốn bị bãi bỏ từ trước, do Tưởng Giới Thạch nắm giữ, trước khi quân đội cộng sản do Mao Trạch Đông dẫn đầu chiếm đóng toàn bộ Trung Quốc đại lục và thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa năm 1949 theo chế độ cộng sản độc đảng. Cùng lúc đó, ở Đông Dương, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời, trước khi Pháp quay trở lại xâm lược, Pháp thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại nhà Nguyễn làm Quốc trưởng lâm thời năm 1949. Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam bị chia cắt, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc dần đi theo mô hình độc đảng xã hội chủ nghĩa, trong khi chính phủ Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam thì đi theo mô hình cộng hoà tổng thống theo mô hình của Mỹ, chức vụ tổng thống được thành lập, ban đầu do Ngô Đình Diệm nắm giữ. Sau 1975, chính phủ Việt Nam Cộng hoà bị lật đổ, và Việt Nam tái thống nhất dưới một chế độ xã hội chủ nghĩa độc đảng.

Ngày nay, hầu hết các quốc gia theo thể chế cộng hoà trên thế giới đều có Tổng thống làm nguyên thủ (ngoại trừ một số nước theo chế độ cộng sản như Việt Nam hay CHND Trung Hoa, những nước này có nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước, tức là nguyên thủ quốc gia của các nước xã hội chủ nghĩa trong tiếng Việttiếng Trung). Tuỳ theo Hiến pháp mỗi quốc gia mà nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng thống giữa các nước có sự khác biệt.

Remove ads

Nhiệm vụ và quyền hạn

Thumb
Bản đồ này cho thấy hình thức tổ chức nhà nước của các quốc gia năm 2021. Màu xanh dương biểu thị các quốc gia theo chế độ cộng hoà tổng thống, màu vàng là các quốc gia cộng hoà bán tổng thống, màu nâu là những nước cộng hoà đơn đảng xã hội chủ nghĩa, còn màu cam và màu xanh lá cây là những nước cộng hoà có hệ thống đại nghị.

Cộng hoà Tổng thống chế

Thumb
Gamal Abdel Nasser, Tổng thống thứ 2 của Ai Cập (tại nhiệm 1956-1970).
Thumb
Kwame Nkrumah, Tổng thống đầu tiên của Ghana (tại nhiệm 1960-1966).

Hình mẫu đầu tiên của một chế độ cộng hoà tổng thống là Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787. Ở các nước cộng hoà tổng thống (như Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Mexico, Hàn Quốc, Việt Nam Cộng hoà (đã bãi bỏ), Indonesia, Philippines,...), không có sự phân biệt rõ ràng giữa nguyên thủ quốc gia, và người đứng đầu chính phủ. Theo Hiến pháp của những quốc gia này, Tổng thống đồng thời kiêm nhiệm chức vụ Thủ tướng, do đó mà quyền hành trở nên rất lớn. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật do Nghị viện ban hành, bổ nhiệm và bãi miễn các bộ trưởng, nắm quyền Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang,... Tổng thống tại các nước cộng hoà tổng thống thường được bầu lên theo hình thức phổ thông đầu phiếu (riêng tại Hoa Kỳ được bầu bởi các Đại cử tri Đoàn)

Cộng hoà Đại nghị chế

Tổng thống tại các nước cộng hòa đại nghị (như Đức, Áo, Ấn Độ, Singapore, Israel,...) thường có quyền lực hạn chế và chủ yếu mang tính nghi lễ. Quyền lực chủ yếu tập trung vào Quốc hộiThủ tướng. Cá biệt có những quốc gia đại nghị như Cộng hoà Nam Phi thì Tổng thống còn kiêm luôn cả chức vụ người đứng đầu chính phủ và có quyền hành rất lớn, nhưng cũng do Quốc hội bầu ra. Hình thức bầu cử tổng thống ở các các quốc gia này rất đa dạng: bầu cử trực tiếp, do Quốc hội bầu, hoặc do Đại cử tri đoàn (Ấn Độ).

Cộng hoà lưỡng tính

Thumb
Vladimir Vladimirovich Putin, Tổng thống đương nhiệm của Liên bang Nga (tại nhiệm 200-2008;2012-nay).
Thumb
Donald Trump, Tổng thống thứ 45 và 47 của Hoa Kỳ (tại nhiệm 2017-2021 và 2025-nay).

Hình mẫu hiện đại của một chế độ cộng hoà bán tổng thống (tiếng Pháp: régime semi-présidentiel) là Hiến pháp Đệ ngũ Cộng hoà Pháp năm 1958. Các nước cộng hoà bán tổng thống (như Pháp, Nga, Ai Cập, Ukraine,...) thường có một nguyên thủ quốc gia và một người đứng đầu chính phủ. Quyền Hành pháp được phân chia giữa tổng thống và thủ tướng. Quyền hạn của tổng thống là có thể giải tán quốc hội khi cần thiết, thống lĩnh Quân đội và giải quyết các vấn đề ngoại giao. Cá biệt tại Nga thì Tổng thống có quyền lực cực kỳ lớn, đặc biệt là trong các vấn đề đối ngoại và quân sự, có thể tuyên chiến với quốc gia khác và không giới hạn số lần tái cử (trên thực tế gần như là tổng thống suốt đời). Hình thức bầu cử phổ biến là phổ thông đầu phiếu.

Nhà nước đơn đảng

Bài chi tiết: Chủ tịch nước

Remove ads

Cách xưng hô

Cách xưng hô dành cho Tổng thống trong tiếng Anh thường thêm chữ Mr. (Ngài)/Mrs. (Bà)(trong trường hợp Tổng thống là nữ giới) vào trước từ President thành "Mr./Mrs. President" (Ngài/Bà Tổng thống). Một số cách xưng hô không chính thức khác như "The Honorable" hay trong quan hệ ngoại giao là "His/Her Exellency".

Xem thêm

Nguyên thủ quốc gia

Tham khảo

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads