Tên lửa hành trình
From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Tên lửa hành trình (tiếng Anh: "Cruise missile") hay còn gọi là tên lửa có cánh (theo thuật ngữ tiếng Nga "Крылатая ракета") là loại tên lửa dẫn đường tự hành không người lái có thể duy trì lực nâng của nó trong suốt hành trình bay. Tên lửa hành trình được thiết kế để mang tải trọng lớn qua một khoảng cách xa và đội chính xác cao. Các tên lửa hành trình hiện đại có khả năng bay ở tốc độ cận âm hoặc thậm chí là siêu vượt âm, có khả năng tự định vị, có quỹ đạo phi đạn đạo và bay ở quỹ đạo cực kì thấp.[1]
Bài này không có nguồn tham khảo nào. |

Remove ads
Lịch sử ra đời và phát triển
Ý tưởng về một loại "ngư lôi bay" lần đầu được đưa ra trong bộ phim của Anh The Airship Destroyer vào năm 1909 trong đó loại ngư lôi bay này được sử dụng để bắn hạ khinh khí cầu đang ném bom London.[2]
Vào năm 1916, phi công người Mỹ Lawrence Sperry đã chế tạo và dăng kí sáng chế một mẫu "ngư lôi bay", với tên gọi the Hewitt-Sperry Automatic Airplane, một máy bay hai tầng cánh nhỏ mang một liều nổ TNT, một hệ thống tự lái Sperry và thiết bị kiểm soát độ cao khí áp. Lấy ảm hứng từ thí nghiệm trên, Quân đội Mỹ đã phát triển một loại bom bay tương tự với cái tên Kettering Bug. Đức cũng đã bay thử mẫu bom lượn điều khiển từ xa cảu họ (Torpedogleiter) chế tạo bởi Siemens-Schuckert từ năm 1916.[3]
Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, Cơ quan Hàng không Hoàng gia của Anh đã phát triển Larynx (Long Range Gun with Lynx Engine), một hệ thống vũ khí tên lửa có tầm bắn xa, và đã thực hiện một vài cuộc thử nghiệm bay vào những năm 1920.[4]
Tại Liên Xô, Sergei Korolev đã đứng đầu dự án tên lửa hành trình GIRD-06 từ năm 1932 đến 1939, sử dụng thiết kế bom lượn có động cơ tên lửa. Các phiên bản 06/III (RP-216) và 06/IV (RP-212) được trang bị hệ thống dẫn đường con quay hồi chuyển.[5] Tên lửa được thiết kế để tăng độ cao lên 28 km (17 mi) và bay xa tới 280 km (170 mi), tuy nhiên các cuộc thử nghiệm bay vào các năm 1934 và 1936 chỉ đạt độ cao 500 mét (1,600 ft).
Vào năm 1944, trong Thế chiến II, Đức đã triển khai tên lửa hành trình hoạt động đầu tiên. V-1, thường được gọi là bom bay, được trang bị hệ thống dẫn đường con quay hồi chuyển và sử dụng động cơ pulsejet đơn giản, với âm thanh đặc trưng của nó đã mang đến biệt danh "buzz bomb" hoặc "doodlebug".[6] Độ chính xác của V-1 chỉ đủ để tấn công các mục tiêu rất lớn (cỡ của một thành phố), trong khi tầm bắn 250 km (160 mi) thấp hơn đáng kể so với tầm bay của một máy bay ném bom mang cùng một lượng đầu đạn.[7] Lợi thế chính của V-1 là tốc độ (mặc dù không đủ nhanh để vượt qua các máy bay tiêm kích cánh quạt đương thời) và tính chi phí thấp. Chi phí sản xuất của một quả V-1 chỉ chiếm một phần nhỏ so với V-2, tên lửa đạn đạo có đầu đạn tương tự. Khác với V-2, các đợt triển khai ban đầu của V-1 yêu cầu các bệ phóng cố định, điều này khiến chúng dễ bị tấn công.[8] Vào năm 1943, Đức Quốc xã cũng phát triển chương trình Mistel – một loại máy bay ghép, có thể coi là một dạng tên lửa hành trình phóng từ trên không sơ khai, trong đó một máy bay tiêm kích có người lái được gắn lên một máy bay ném bom không người lái, chứa đầy chất nổ và được thả khi tiếp cận mục tiêu. Các phiên bản V-1 phóng từ máy bay ném bom chỉ được sử dụng một cách hạn chế gần cuối cuộc chiến, với thiết kế ban đầu của V-1 được người Mỹ nghiên cứu đảo ngược và phát triển thành tên lửa hành trình JB-2 của Republic-Ford. [9]
Trong những năm 1980 trong cao trào chạy đua vũ khí tên lửa tầm trung. Hoa Kỳ cho triển khai loại tên lửa hành trình Tomahawk mang đầu đạn hạt nhân với ba phương án phóng từ máy bay, phóng từ tàu chiến và tàu ngầm, trong khi Liên Xô có loại tên lửa tương đương là Raduga Kh-55. Hệ vũ khí Tomahawk của Hoa Kỳ và Raduga Kh-55 của Liên Xô tạo nên bước tiến lớn trong công nghệ chế tạo vũ khí nhất là ở hệ thống điều khiển công nghệ cao: tên lửa ngoài hệ thống dẫn đường theo quán tính cổ điển được tích hợp hệ thống dẫn đường lập trình sẵn (tự lập) dựa trên sự thay đổi cao độ của địa hình - hệ thống TERCOM (TERrain COntour Matching system - tên lửa vừa bay vừa dùng mắt thần laser đo cao độ của địa hình và hiệu chỉnh với các tham số của bản đồ số đã được lập trình bay) cho đến nay đây vẫn là bí quyết công nghệ cao của Hoa Kỳ và Nga. Công nghệ dẫn đường này cho phép tên lửa hành trình đạt độ chính xác cao.[cần dẫn nguồn]
Tại Liên Xô, công việc bắt đầu tại cục Raduga với mẫu tên lửa hành trình phóng trên không mới vào năm 1971, với chuyến bay thử đầu tiên vào năm 1976.[10] Không quân Xô viết đưa ra một yêu cầu chính thức về một loại tên lửa hành trình phóng trên không vào tháng 12-1976.[11] Kh-55SM tầm xa được phát triển một vài năm trước khi đi vào hoạt động. Vào cuối thập niên 1980 công việc lại tiếp tục bắt đầu với một loại tên lửa thay thế trang bị đầu đạn thông thường (Kh-101) hay đầu đạn hạt nhân (Kh-102)[12] và khả năng tàng hình tốt. Nó được thiết kế bởi kỹ sư Igor Seleznyev thuộc Raduga.[13]
Năm 1982, hãng Boeing đã giao cho Không quân Hoa Kỳ những tên lửa hành trình phóng từ trên không ALCM (Air Launched Cruise Missiles) đầu tiên của họ. Đó là những máy bay nhỏ, cánh hình mũi tên có thể gập lại được (cánh cụp-xòe). Chúng được ngoắc dưới cánh máy bay B52, mỗi máy bay 12 tên lửa. Những chuyến giao tên lửa hành trình "vô hình" (stealth) đầu tiên cho không lực Mỹ đã diễn ra vào năm 1986. Chương trình đó, được biết chính thức dưới tên gọi ACM (Advanced Cruise Missile, tên lửa hành trình tiên tiến), là một trong những bí mật nhất của Lầu năm góc. Không quân Pháp năm 1986 đã nhận tên lửa tuần tiễu đầu tiên có đầu đạn nhiệt hạch của mình, loại ASMP, tên lửa "không đối đất tầm trung bình", do Aérospatiable chế tạo.[cần dẫn nguồn]
Trong những năm 1990 và sau này với sự ứng dụng rộng rãi công nghệ hệ thống định vị toàn cầu (GPS) tên lửa hành trình đã trang bị công nghệ này cho việc dẫn đường đạt độ chính xác gần như tuyệt đối (Toạ độ mục tiêu được đưa vào chương trình dẫn đường của hệ thống dẫn hướng theo quán tính, trong quá trình bay lên lửa liên tục kết nối với hệ thống định vị toàn cầu để xác định toạ độ của mình, so sánh với toạ độ mục tiêu và đưa ra các hiệu chỉnh tham số bay). Với sự áp dụng dẫn đường bằng GPS, bí mật công nghệ TERCOM của Hoa Kỳ mất vai trò độc tôn, giờ đây các nước công nghệ hạng hai cũng có thể chế tạo tên lửa hành trình có độ chính xác cao, việc này tạo thách thức phổ biến vũ khí công nghệ cao ra khắp thế giới. Hiện nay đã có ít nhất là 12 nước xuất khẩu tên lửa hành trình và hàng chục nước khác có loại vũ khí này ở các mức độ hiện đại khác nhau.[cần dẫn nguồn]
Remove ads
Phân loại
Tên lửa hành trình có thể được phân loại theo kiểu đầu đạn/tải trọng, tốc độ, tầm bắn và nền tảng phóng. Thường có các biến thể của cùng một loại tên lửa dành cho nhiều nền tảng phóng khác nhau (ví dụ: phiên bản phóng từ máy bay và phiên bản phóng từ tàu ngầm).
Hệ dẫn đường thay đổi tùy từng dòng tên lửa. Một số tên lửa có thể trang bị nhiều phương án dẫn đường như dẫn đường quán tính (INS), TERCOM (so khớp địa hình), hoặc dẫn đường vệ tinh. Các tên lửa hành trình cỡ lớn có thể mang đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân, trong khi các loại cỡ nhỏ thường chỉ mang đầu đạn thường.
Remove ads
Các hệ tên lửa hành trình nổi tiếng
- Bom bay V-1 của Đức Quốc xã
- Tomahawk chống mục tiêu mặt đất của Hoa Kỳ
- Kh-101 chống mục tiêu mặt đất của Liên Xô/Nga
- Các phương án SS-N chống tàu chiến của Liên Xô/Nga (P-15 Termit, P-270 Moskit, P-700 Granit, P-800 Oniks, Kh-35, 3M-54 Klub, K-300P Bastion-P)
- Apache của Pháp
- Gabriel của Israel
- Otomat của Ý
- RBS-15 của Thuỵ Điển
Xem thêm
- Tên lửa
- Bom bay V-1
- Hệ thống tự dẫn
- Danh sách tên lửa
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads
