Đậu mùa
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trước khi sử dụng những thông tin này, độc giả cần liên hệ và nhận sự tư vấn của các bác sĩ chuyên môn.
Đậu mùa là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi hai biến thể virus, Variola major và Variola minor.[7] Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là variola hay variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là "có nốt", hoặc varus, nghĩa là "mụn nhọt". Trong tiếng Anh, danh từ "smallpox" được sử dụng đầu tiên vào thế kỷ 15 để phân biệt với biến dạng "great pox" (bệnh giang mai).[8]
Đậu mùa | |
---|---|
Một đứa trẻ mắc bệnh đậu mùa ở Bangladesh vào năm 1973. | |
Khoa/Ngành | Bệnh truyền nhiễm |
Triệu chứng | |
Biến chứng | Sẹo da, mù lòa[2] |
Khởi phát | 1 đến 3 tuần sau khi tiếp xúc[1] |
Diễn biến | Khoảng 4 tuần[1] |
Nguyên nhân | Variola major, Variola minor (lây lan qua người)[2][3] |
Phương pháp chẩn đoán | Dựa trên các triệu chứng và được xác nhận bằng PCR[4] |
Chẩn đoán phân biệt | Thủy đậu, chốc, u mềm lây, đậu mùa khỉ[4] |
Phòng ngừa | Vắc-xin bệnh đậu mùa[5] |
Điều trị | Điều trị triệu chứng[6] |
Thuốc | Brincidofovir |
Tiên lượng | Nguy cơ tử vong 30%[1] |
Dịch tễ | Đã xóa sổ (trường hợp cuối cùng vào năm 1977) |
Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng rộp những vết sần chứa nước. Virus V major độc hại hơn, gây tử vong trong số 30-35% bệnh nhân. V minor gây dạng bệnh nhẹ hơn, giết khoảng 1% bệnh nhân.[9] Biến chứng lâu dài của việc nhiễm V major là các sẹo rỗ đặc trưng trên da, thường là ở mặt, ở 65-85% số nạn nhân. Nạn nhân cũng có thể bị mù vì giác mạc bị sẹo. Phái nam còn có thể bị hiếm muộn. Biến dạng ở các chi do chứng viêm khớp và viêm khớp xương mãn tính là biến chứng ít gặp hơn, xuất hiện ở khoảng 2-5% các trường hợp nhiễm bệnh.