![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/1b/Flag_of_Japan_%25281870%25E2%2580%25931999%2529.svg/langvi-640px-Flag_of_Japan_%25281870%25E2%2580%25931999%2529.svg.png&w=640&q=50)
Đế quốc thực dân Nhật Bản
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc thực dân Nhật Bản thành lập các thuộc địa ở nước ngoài thành lập bởi Đế quốc Nhật Bản trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á từ năm 1895.[1] Số trận thắng trên Trung Quốc và Nga mở rộng phạm vi Nhật Bản ảnh hưởng, đặc biệt là ở Đài Loan và Triều Tiên và Nam Sakhalin đã trở thành một thuộc địa Nhật Bản là tỉnh Karafuto vào năm 1905.
Đế quốc thực dân Nhật Bản
|
|
---|---|
1895–1945[1] | |
![]() Đế quốc Nhật Bản vào năm 1942.
| |
Tổng quan | |
Vị thế | Đế quốc thực dân |
Thủ đô | Tokyo |
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Nhật Địa phương:
Tiếng Triều Tiên (Triều Tiên), Tiếng Mãn (Mãn Châu Quốc), Tiếng Phúc Kiến (Đài Loan), Tiếng Đài Loan (Đài Loan) |
Lịch sử | |
• Thành lập | 1895 |
• Giải thể | 1945[1] |
Kinh tế | |
Đơn vị tiền tệ | Yên Nhật, Hoàng quân quân phiếu, Yên Triều Tiên, Yên Đài Loan |
Mã ISO 3166 | JP |
Hiện nay là một phần của | Các quốc gia hiện nay từng là thuộc địa của Nhật Bản |
Sau khi chiếm giữ các lãnh thổ của Đức vào năm 1914, Hội Quốc Liên đã trao quyền cho Nhật Bản đối với một số tài sản thuộc địa của Đức trước đây ở Tây Thái Bình Dương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Với sự mở rộng của Nhật Bản sang Mãn Châu vào đầu những năm 1930, Nhật Bản đã áp dụng chính sách thiết lập hoặc hỗ trợ các quốc gia bù nhìn ở các khu vực bị chinh phục. Trong hình thức chủ nghĩa đế quốc ít rõ ràng hơn này, Nhật Bản đã kiểm soát nhiều quốc gia mà nó gọi là Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, một khái niệm dần dần hình thành dưới ảnh hưởng của Nhật Bản từ năm 1930 đến năm 1945. Sự kiểm soát của thực dân đối với các vùng lãnh thổ xa xôi từ Tokyo kết thúc sau khi quân Đồng minh đánh bại Nhật Bản năm 1945: phạm vi cai trị của Nhật Bản trở lại với bốn hòn đảo quê hương, Quần đảo Nanpō và Lưu Cầu.