Chiến dịch Mùa Xuân 1975
chiến dịch trong chiến tranh Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch mùa Xuân năm 1975, hay Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam,[1] là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng trong Chiến tranh Việt Nam.
Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
Phiên bản xe tăng T-59 số hiệu 390 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong sân Dinh Độc Lập. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Quân đội Nhân dân Việt Nam | Quân đội Hoa Kỳ (cố vấn) | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Lê Duẩn Võ Nguyên Giáp Văn Tiến Dũng Lê Trọng Tấn Hoàng Minh Thảo Trần Văn Trà Lê Đức Anh Đinh Đức Thiện Bùi Phùng Hoàng Cầm Nguyễn Hữu An Vũ Lăng Nguyễn Hòa |
Nguyễn Văn Thiệu Cao Văn Viên Ngô Quang Trưởng Phạm Văn Phú Nguyễn Văn Toàn Nguyễn Khoa Nam Đồng Văn Khuyên Trần Văn Đôn Chung Tấn Cang Frederick C. Weyand | ||||||
Lực lượng | |||||||
Số liệu của Việt Nam Khoảng 200.000-270.000 quân chính quy Khoảng 65.000-70.000 lính hậu cần B2, Đoàn 559, bộ đội địa phương và du kích[3] 320 xe tăng, 250 xe bọc thép 6 máy bay A-37 88 đại bác, 343 pháo cao xạ, 1.561 pháo cỡ nhỏ, súng cối và súng không giật Số liệu của Hoa Kỳ 270.000 quân chủ lực tại miền Nam[4] 1.000.000 quân (tính cả dân quân, du kích)[5] |
Theo Văn Tiến Dũng : 495.000 quân chính quy, 475.000 quân địa phương. 1.400.000 lính phòng vệ dân sự (trong đó 381.000 có vũ trang)[6] Theo Nguyễn Tiến Hưng 1.200.000 quân chính quy, bảo an, địa phương và 120.000 cảnh sát[7] 2.044 xe tăng và xe thiết giáp 1.683 máy bay các loại (khoảng 900 trực thăng và 80 máy bay vận tải) 1.607 đại bác (cỡ 105mm, 155mm và 175mm), 14.900 súng cối, hơn 200 súng không giật[8] 579 tàu, xuồng chiến đấu các loại. | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
~6.000 chết, 15.999 bị thương[9] |
~30.000 chết, 60.000 bị thương 1.100.000 bị bắt hoặc đầu hàng Khoảng 5 tỷ USD (thời giá 1975) vũ khí bị tịch thu (bao gồm 877 máy bay và trực thăng, 550 xe tăng - thiết giáp, 1.300 đại bác, 42.000 xe tải, 12.000 súng cối, gần 2 triệu vũ khí bộ binh)[10][11] |
Chiến dịch bắt đầu từ ngày 4 tháng 3 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngoài Trận Phước Long được coi là trận đánh trinh sát chiến lược, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 gồm ba chiến dịch lớn liên tiếp nhau:
1. Chiến dịch Tây Nguyên (4 - 24 tháng 3)
2. Chiến dịch Giải phóng Huế - Đà Nẵng (21 - 29 tháng 3)
3. Chiến dịch Hồ Chí Minh (26 - 30 tháng 4).
Đồng thời, cùng trong thời gian này còn có những chiến dịch nhỏ hơn diễn ra trên những địa bàn quân sự chiến lược như: Long Khánh - Xuân Lộc, Trường Sa và các đảo trên Biển Đông, các trận đánh trên các tuyến phòng thủ từ xa của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như Tây Ninh - An Lộc - Dầu Tiếng, Phan Rang - Ninh Thuận...
Những chiến dịch trên được thực hiện sau khi Hoa Kỳ đã rút quân viễn chinh khỏi Việt Nam, chỉ còn duy trì viện trợ và lực lượng cố vấn. Cán cân lực lượng đã nghiêng sang phía lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Kết quả thắng lợi quân sự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong chiến dịch này đã dẫn đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc Chiến tranh Việt Nam.