Gia Long
hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn, Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Gia Long[3] (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎), thường được gọi là Nguyễn Ánh (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự người Việt Nam, vị vua sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820, được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thế Tổ (阮世祖). Trong suốt thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Gia Long (嘉隆), nên thường được gọi là Gia Long Đế.
Bài này có thể quá dài để đọc hay điều hướng. Kích thước văn xuôi của bài hiện là 330 KB. (tháng 3/2021) |
Nguyễn Thế Tổ Gia Long | |||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Đại Việt | |||||||||||||||||||||
Tại vị | 23 tháng 6 năm 1802 – 1804 | ||||||||||||||||||||
Nhiếp chính | Minh Mạng (1818–1820) | ||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Nguyễn Quang Toản của Nhà Tây Sơn | ||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Đại Việt đổi tên thành Việt Nam | ||||||||||||||||||||
Hoàng đế Việt Nam | |||||||||||||||||||||
Tại vị | 1804 – 3 tháng 2 năm 1820 | ||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Đại Việt đổi tên thành Việt Nam | ||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Minh Mạng | ||||||||||||||||||||
Hoàng đế triều Nguyễn | |||||||||||||||||||||
Tại vị | 1802–1820 | ||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Triều đại thành lập | ||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Minh Mạng | ||||||||||||||||||||
Chúa Nguyễn | |||||||||||||||||||||
Tại vị | tháng 5 năm 1777 – 23 tháng 6 năm 1802 | ||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Nguyễn Phúc Dương | ||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Kết thúc | ||||||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||||||
Sinh | (1762-02-08)8 tháng 2, 1762 Phú Xuân, Đàng Trong, Đại Việt | ||||||||||||||||||||
Mất | 3 tháng 2, 1820(1820-02-03) (57 tuổi) Hoàng thành Huế | ||||||||||||||||||||
Phối ngẫu | Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Thuận Thiên Cao hoàng hậu Hơn 100 thê thiếp | ||||||||||||||||||||
Hậu duệ | Nguyễn Phúc Cảnh Nguyễn Phúc Đảm 13 con trai và 18 con gái khác | ||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||
Hoàng tộc | Nguyễn Phúc | ||||||||||||||||||||
Thân phụ | Nguyễn Phúc Luân | ||||||||||||||||||||
Thân mẫu | Nguyễn Thị Hoàn | ||||||||||||||||||||
Tôn giáo | Khổng giáo |
Nguyễn Ánh là cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Khoát, vị chúa Nguyễn áp chót ở Đàng Trong. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn lật đổ vào năm 1777, ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục ngôi vị. Ban đầu Nguyễn Ánh chịu nhiều thất bại lớn, có lúc phải chạy sang Xiêm La và sống lưu vong ở đây trong ba năm. Để chống Tây Sơn, ông nhiều lần cầu viện nước ngoài, bao gồm việc mời quân Xiêm đánh vào Nam bộ[4], hứa cắt đất và cống nạp để mời quân Pháp[5], và chở 50 vạn cân gạo để giúp quân Thanh đang chiếm đóng Bắc bộ[6]
Năm 1787, ông đã trở lại và giữ vững được Nam Bộ. Về sau, lúc Tây Sơn suy yếu sau cái chết đột ngột của vua Quang Trung vào năm 1792, Nguyễn Ánh bắt đầu tiến đánh nhà Tây Sơn và đến năm 1802 thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Nguyễn, thống nhất đất nước và kết thúc nhiều thế kỷ nội chiến ở Việt Nam. Triều đại của Gia Long đã chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam. Ông cũng quyết định đóng kinh đô tại thủ phủ cũ của các Chúa Nguyễn là Phú Xuân (Huế).[7] Lãnh thổ nước Việt thời Gia Long về cơ bản được định hình giống như ngày nay, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuy nhiên diện tích miền Trung đã bị thu hẹp lại do Gia Long cắt vùng Trấn Ninh, rộng khoảng 45.000 km² và nay là lãnh thổ của Lào, cho vương quốc Vạn Tượng để nhận lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn.[8]
Về đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời người Pháp giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo tại Việt Nam. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long không được ổn định, do Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng nên bị người dân bất bình,[9] chỉ trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.[10] Gia Long cũng xóa bỏ các cải cách tiến bộ của triều Tây Sơn để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân người Việt buôn bán với ngoại quốc,[11] soạn Hoàng triều luật lệ hay còn gọi là "luật Gia Long", gần như chép nguyên mẫu từ luật của nhà Thanh (Trung Quốc) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ luật Hồng Đức của nhà Hậu Lê.[12] Các chính sách bảo thủ là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị đế quốc Pháp xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.[13]