![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/c3/Chaos_Monster_and_Sun_God.png/640px-Chaos_Monster_and_Sun_God.png&w=640&q=50)
Gilgamesh
From Wikipedia, the free encyclopedia
Gilgamesh (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, Gilgameš; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, Bilgames)[lower-alpha 1] là một vị vua trong lịch sử của thành bang Uruk của Sumer cổ đại, và là một nhân vật anh hùng trong thần thoại Lưỡng Hà cổ đại, nhân vật chính của Sử thi Gilgamesh được viết bằng tiếng Akkad vào cuối thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên. Ông có thể đã trị vì vào k. 2800 - 2500 TCN và được thần thánh hóa sau khi chết.
Gilgamesh 𒀭𒄑𒉋𒂵𒈨𒌋𒌋𒌋 | |
---|---|
![]() | |
Tại vị | k. 2900-2700 TCN (Tiền triều đại)[2][3][4][5][6] |
Thông tin chung | |
Hậu duệ | Ur-Nungal |
Thân phụ | Lugalbanda |
Thân mẫu | Ninsun |
Ông trở thành một hình tượng lớn trong các truyền thuyết của người Sumer xuyên suốt Triều đại thứ ba của Ur (k. 2112 - k. 2004 TCN). Những câu chuyện về các chiến công thần thoại của Gilgamesh được kể lại trong năm bài thơ tiếng Sumer còn sót lại, sớm nhất trong số này có khả năng là bài thơ Gilgamesh, Enkidu và Thế giới cõi âm. Trong đó, Gilgamesh đến trợ giúp nữ thần Inanna xua đuổi những sinh vật nhiễm bệnh cho cây huluppu của bà. Bà thưởng cho ông hai vật gọi là mikku và pikku mà sau bị ông làm mất. Enkidu xuống Cõi âm để đi tìm chúng, sau khi quay về đã kể với Gilgamesh về nỗi thảm đạm ở Cõi âm. Bài thơ Gilgamesh và Aga mô tả cuộc nổi dậy của Gilgamesh chống lại vua Aga của Kish. Một bài thơ Sumer khác nhắc đến đến việc Gilgamesh đánh bại quái vật Huwawa và Thiên ngưu, và bài thơ thứ năm không còn nguyên vẹn mô tả cái chết và tang lễ của Gilgamesh.
Vào thời Babylon sau này, những câu chuyện này bắt đầu được chắp nối và liên kết lại. Bản Sử thi Gilgamesh tiêu chuẩn tiếng Akkad được biên soạn bởi một kinh sư có tên Sin-lēqi-unninni, có thể trong thời kì Trung Babylon (k.1600 - k.1155 TCN), tổng hợp từ những nguồn cổ hơn. Trong sử thi, Gilgamesh là một vị vua bán thần có sức mạnh siêu phàm. Ông kết bạn với Enkidu và cùng nhau đi phiêu lưu, đánh bại Humbaba (tương đương với Huwawa trong tiếng Đông Semit) và Thiên Ngưu Gugalanna, con bò thần do nữ thần Ishtar (tương đương với Inanna trong tiếng Đông Semit) cử đến để tàn phá Uruk sau khi Gilgamesh từ chối trở thành người tình của bà. Sau khi Enkidu chết vì sự trừng phạt từ các vị thần, Gilgamesh trở nên sợ hãi cái chết, và đến thăm nhà hiền triết Utnapishtim, người sống sót sau trận Đại hồng thủy, với hy vọng tìm kiếm sự bất tử. Sau khi liên tục thất bại trong các thử thách đi tìm sự bất tử, Gilgamesh trở về Uruk và nhận ra rằng sự bất tử nằm ngoài tầm tay của con người.
Hầu hết các nhà sử học cổ điển đều đồng ý rằng Sử thi Gilgamesh có một ảnh hưởng đáng kể đến cả Iliad và Odyssey, hai thiên sử thi được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại trong thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Sử thi Gilgamesh được tìm ra trong tàn tích Thư viện Ashurbanipal vào năm 1849. Sau khi được phiên dịch vào đầu những năm 1870, nó đã gây nên một cuộc tranh cãi lớn do sự tương đồng giữa một số phần của nó và Kinh thánh Hebrew. Gilgamesh vẫn được tương đối ít người biết đến cho đến giữa thế kỷ 20, nhưng từ cuối thế kỷ 20 trở đi, ông bắt đầu trở thành một hình tượng nổi bật trong văn hóa hiện đại.