Uruk
From Wikipedia, the free encyclopedia
Uruk (/ˈuːrʊk/; Chữ hình nêm: 𒌷𒀕 hoặc 𒌷𒀔 URU UNUG; Tiếng Sumer: Unug; Tiếng Akkad: Uruk; tiếng Ả Rập: وركاء or أوروك, Warkāʼ or Auruk; Aramaic/Hebrew: אֶרֶךְ ʼÉreḵ; tiếng Hy Lạp cổ: Ὀρχόη, chuyển tự Orkhoē, Ὀρέχ Orekh, Ὠρύγεια Ōrugeia) là một thành bang cổ đại thuộc Sumer (và sau này là Babylonia), nằm ở phía đông của dòng sông Euphrates hiện tại, trên kênh đào Euphrates cổ nay đã khô cạn, nằm cách phía đông Samawah, Al-Muthannā, Iraq ngày nay khoảng 30 km (19 mi).[1]
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Pháp. (tháng 10/2023) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Phục chế mặt trước đền Karaindash thờ Inanna tại Uruk. Giữa thế kỉ 15 TCN. Bảo tàng Pergamon. | |
Vị trí | Al-Warka, Tỉnh Muthanna, Iraq |
---|---|
Vùng | Lưỡng Hà |
Tọa độ | 31°19′27″B 45°38′14″Đ |
Loại | Khu định cư |
Diện tích | 6 km2 (2,3 dặm vuông Anh) |
Lịch sử | |
Thành lập | k. 5000 BC; 7024 năm trước |
Bị bỏ rơi | Khoảng 700 CN |
Niên đại | Thời kì Uruk đến Sơ kỳ Trung Cổ |
Các ghi chú về di chỉ | |
Khai quật ngày | 1850, 1854, 1902, 1912–1913, 1928–1939, 1953–1978, 2001–2002, 2016–nay |
Các nhà khảo cổ học | William Loftus, Walter Andrae, Julius Jordan, Heinrich Lenzen, Margarete van Ess |
Tên chính thức | Thành phố khảo cổ Uruk |
Một phần của | Ahwar Nam Iraq |
Tiêu chuẩn | Kết hợp: (iii)(v)(ix)(x) |
Tham khảo | 1481-005 |
Công nhận | 2016 (Kỳ họp 40) |
Diện tích | 541 ha (2,09 dặm vuông Anh) |
Vùng đệm | 292 ha (1,13 dặm vuông Anh) |
Uruk là khu vực điển hình của thời kỳ Uruk. Uruk đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa thời kì đầu của Sumer vào giữa thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Vào gian đoạn hưng thịnh khoảng năm 2900 TCN, Uruk có thể có tới 50.000 đến 80.000 cư dân sống trong 6 km2 (2,32 dặm vuông Anh) nội thành; và là thành phố lớn nhất trên thế giới vào thời điểm bấy giờ.[1] Vị vua huyền thoại Gilgamesh, theo niên đại trong Bản danh sách Vua Sumer, đã trị vì Uruk vào thế kỷ 27 TCN. Thành phố đánh mất vị thế đứng đầu của nó vào khoảng năm 2000 TCN, trong bối cảnh Babylonia phải vật lộn chống lại Elam, nhưng nó vẫn tồn tại cho đến tận các thời kỳ Seleucid (312-63 TCN) và Parthia (227 TCN đến 224 CN), và cuối cùng bị bỏ hoang khoảng trước hoặc sau khi người Hồi giáo chinh phục Lưỡng Hà năm 633-638.
William Kennett Loftus đã đến khu vực Uruk vào năm 1849 và chỉ huy các cuộc khai quật đầu tiên từ năm 1850 đến 1854; ông đã xác định nó là "Erech", được biến đến như "thành phố thứ hai của Nimrod".[2]
Tên tiếng Ả Rập của Babylonia, cuối cùng trở thành tên của đất nước Iraq ngày nay, al-ʿIrāq, được cho là bắt nguồn từ tên Uruk, thông qua tiếng Aram (Erech) và có thể được truyền qua tiếng Trung Ba Tư (Erāq).[3] Trong tiếng Sumer, từ uru có thể có nghĩa là "thành phố, thị trấn, làng, huyện".[4]