Hán Quang Vũ Đế
hoàng đế đầu tiên nhà Đông Hán / From Wikipedia, the free encyclopedia
Hán Quang Vũ Đế (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi Hán Thế Tổ (漢世祖), húy Lưu Tú (劉秀), biểu tự Văn Thúc (文叔)[1], là vị Hoàng đế sáng lập triều đại Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị Hoàng đế thứ 16 của nhà Hán. Ông trị vì từ ngày 5 tháng 8 năm 25 đến khi mất, tổng cộng 32 năm.
Hán Quang Vũ Đế 漢光武帝 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Quang Vũ Hoàng đế, tranh của Diêm Lập Bản thời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) | |||||||||||||||||
Hoàng đế nhà Đông Hán | |||||||||||||||||
Trị vì | 5 tháng 8, 27 – 29 tháng 3, 57 (31 năm, 236 ngày) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại Hán Kiến Thế Đế (Tiền Hán) | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Hán Minh Đế | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 15 tháng 1, năm 5 TCN Tân Dã, Nam Dương | ||||||||||||||||
Mất | 29 tháng 3, năm 57 (62 tuổi) Nam Cung, Lạc Dương | ||||||||||||||||
An táng | Nguyên lăng (原陵) | ||||||||||||||||
Thê thiếp | Quang Vũ Quách hoàng hậu Quang Liệt Âm hoàng hậu | ||||||||||||||||
Hậu duệ | xem văn bản | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Đông Hán | ||||||||||||||||
Thân phụ | Lưu Khâm | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Phàn Nhàn Đô |
Là dòng dõi xa của nhà Tây Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động, được gọi là Quang Vũ trung hưng (光武中興).
Trong lịch sử Trung Quốc, Quang Vũ Đế Lưu Tú được đánh giá cao với tài cầm binh, sau khi xưng Đế đã đích thân dẫn binh thảo phạt tứ phương, thu phục nhiều quân phiệt và củng cố chính quyền nhà Hán sau một thời gian bị gián đoạn. Ông trọng hiền đãi sĩ, khoan hậu trọng tín, nên được chư hầu Đậu Dung (竇融), tướng Mã Viện đều quy phục. Khác với tổ tiên Hán Cao Tổ Lưu Bang, hoặc các vị Hoàng đế khai quốc về sau như Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, ông không sát hại hiền thần theo mình như họ, mà thiện đãi, khuất phục họ phục vụ mình cho đến hết triều đại của mình.
Đối với Hung Nô, Quang Vũ Đế sáp nhập Nam Hung Nô vào lãnh thổ nhà Hán, nhập vào 8 quận biên phòng phía Bắc gồm: Bắc Địa, Sóc Phương, Ngũ Nguyên, Vân Trung, Định Tương, Nhạn Môn, Đại Quân và Tây Hà. Quang Vũ cho phép Thiền vu ngự tại Mỹ Tắc huyện của Tây Hà. Theo thời gian, diên biên Bát quận này ngày càng trở thành một thế lực mạnh, vừa góp phần giúp nhà Hán ngăn chặn Bắc Hung Nô, lại tự tạo thành 1 thế lực quân phiệt. Đến thời kì giữa Đông Hán, bên cạnh loạn người Khương thì Bát quận thường xuyên nổi loạn, tạo thành một mối họa Bắc phiên trong suốt thời gian còn lại của Đông Hán[2].