Israel
quốc gia có chủ quyền ở Tây Á / From Wikipedia, the free encyclopedia
Israel (phiên âm: I-xra-en[23], tiếng Hebrew: יִשְׂרָאֵל Yisrā'el, tiếng Ả Rập: إِسْرَائِيل Isrāʼīl), tên gọi chính thức là Nhà nước Israel (tiếng Hebrew: מְדִינַת יִשְׂרָאֵל Medīnat Yisrā'elⓘ [mediˈnat jisʁaˈʔel]; tiếng Ả Rập: دولة إِسْرَائِيل Dawlat Isrāʼīl [dawlat ʔisraːˈʔiːl]), là một quốc gia tại Trung Đông, nằm trên bờ đông nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của Biển Đỏ. Israel có biên giới trên bộ với Liban về phía bắc, Syria về phía đông bắc, Jordan về phía đông, Bờ Tây, dải Gaza về phía đông và tây[24], với Ai Cập về phía tây nam. Quốc gia này có nhiều đặc điểm địa lý đa dạng.[25][26] Thành phố Jerusalem được tuyên bố là thủ đô vào năm 1980 nhưng không được quốc tế công nhận.[27][28][29][30]
Nhà nước Israel
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Vị trí của Israel (xanh) trên thế giới | |
Vị trí của Israel (xanh) trong khu vực | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Jerusalem (công nhận hạn chế)[fn 1] 31°47′B 35°13′Đ |
Ngôn ngữ chính thức | Hebrew |
Ngôn ngữ được công nhận | Tiếng Ả Rập[fn 2] |
Sắc tộc (2019) | |
Tôn giáo chính (2019) |
|
Tên dân cư | Người Israel |
Chính trị | |
Chính phủ | Nhà nước đơn nhất Cộng hòa nghị viện |
Isaac Herzog | |
Benjamin Netanyahu | |
Amir Ohana | |
• Chánh án | Esther Hayut |
Lập pháp | Knesset |
Lịch sử | |
Độc lập từ đế quốc Anh | |
• Tuyên bố thành lập | 14 tháng 5 năm 1948 |
11 tháng 5 năm 1949 | |
• Luật Cơ Bản | 1958–2018 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 20,770–22,072 km2[a] (hạng 150) 8,019–8,522 mi2 |
• Mặt nước (%) | 2,71 (tính đến 2015)[15] |
Dân số | |
• Ước lượng 2024 | 9.852.460[16][fn 3] (hạng 99) |
• Điều tra 2008 | 7.412.200[17][fn 3] |
• Mật độ | 446/km2 (hạng 35) 1.155,1/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2020[18] |
• Tổng số | $372,314 tỉ[fn 3] (hạng 51) |
$40,336[fn 3] (hạng 34) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2020[18] |
• Tổng số | $410,501 tỉ[fn 3] (hạng 31) |
• Bình quân đầu người | $44,474[fn 3] (hạng 19) |
Đơn vị tiền tệ | Shekel mới (₪) (ILS) |
Thông tin khác | |
Gini? (2018) | 34,8[fn 3][21] trung bình |
HDI? (2019) | 0,919[fn 3][22] rất cao · hạng 19 |
Múi giờ | UTC+2 (IST) |
UTC+3 (IDT) | |
Cách ghi ngày tháng |
|
Giao thông bên | phải |
Mã điện thoại | +972 |
Mã ISO 3166 | IL |
Tên miền Internet | .il |
Biên giới sau Hiệp định ngừng bắn năm 1949 (Giới tuyến Xanh) | |
|
Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc quyết định thông qua một phương án phân chia chính thức cho Lãnh thổ ủy trị Palestine, thuộc địa của Đế quốc Anh thành hai nhà nước mới, một của người Ả Rập và một của người Do Thái, trong khi Jerusalem nằm dưới quyền quản lý của Liên Hợp Quốc dưới hình thức là một chính thể quốc tế.[31][32] Ngày 14 tháng 5 năm 1948, David Ben Gurion tuyên bố thành lập nhà nước Israel.[33][34][35] Thế nhưng, biên giới lại không được xác định rõ ràng.[32][36] Các nước Ả Rập phát động chiến tranh nhằm xóa sổ nhà nước Israel non trẻ.[37][38] Chiến tranh Ả Rập - Israel bùng phát và Israel chiến thắng.[39] Sau đó, Israel tiếp tục chiến thắng trong chiến tranh Sáu Ngày và chiến tranh Yom Kippur, chiếm đóng Bờ Tây, bán đảo Sinai, miền nam Liban, dải Gaza và Cao nguyên Golan.[40][41][42][43]
Ngày nay, Israel là một trong những quốc gia sáng tạo[44] và có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới.[45] Mặc dù không xác nhận nhưng Israel được cho là đã sở hữu vũ khí hạt nhân.[46][47][48] Israel là một đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ.