Chiến tranh Yom Kippur
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cuộc chiến Yom Kippur, Chiến tranh Ramadan hay Cuộc chiến tháng 10 (tiếng Hebrew: מלחמת יום הכיפורים; chuyển tự: Milkhemet Yom HaKipurim or מלחמת יום כיפור, Milkhemet Yom Kipur; tiếng Ả Rập: حرب أكتوبر; chuyển tự: harb 'uktubar hoặc حرب تشرين, ħarb Tishrin), hay Chiến tranh Ả Rập-Israel 1973 và Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ tư, là cuộc chiến diễn ra từ 6 tháng 10 năm 1973 cho tới 26 tháng 10 năm 1973 bởi liên minh các quốc gia Ả Rập dẫn đầu bởi Ai Cập và Syria chống lại Israel. Cuộc chiến khởi phát khi quân Ai Cập và Syria bất ngờ đồng loạt tấn công Israel trong ngày lễ Yom Kippur, ngày lễ thiêng liêng của người Do Thái. Ai Cập và Syria vượt qua tuyến ngưng bắn tại bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan, vốn bị Israel chiếm năm 1967 trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày.[12]
Bài viết hoặc đoạn này có văn phong hay cách dùng từ không phù hợp với văn phong bách khoa. (tháng 11/2021) |
Cuộc chiến Yom Kippur | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Xung đột Ả Rập-Israel | |||||||
Quân đội Ai Cập vượt kênh đào Suez | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Hỗ trợ: Hoa Kỳ Tây Đức Hàn Quốc Úc |
Ai Cập Liên Xô Đông Đức Các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Moshe Dayan David Elazar Israel Tal Haim Bar-Lev Shmuel Gonen Yitzhak Hofi Benjamin Peled Benjamin Telem Abraham Adan Ariel Sharon Rafael Eitan Moshe Peled |
Saad El Shazly | ||||||
Lực lượng | |||||||
75.000 quân (lúc bắt đầu) Hỗ Trợ: Mỹ viện trợ khẩn cấp 2,2 tỷ USD vũ khí |
Ai Cập: 325.000-400.000 quân Iraq: 60 ngàn quân, 300 xe tăng và xe bọc thép, 54 pháo, 73 máy bay Jordan: Vài ngàn quân, 150 xe tăng và 200 xe bọc thép, 36 pháo, vài máy bay Cuba: ~4.000 quân tình nguyện, 26 trực thăng Triều Tiên: 21 phi công Mig, 19 quân phòng không Maroc: ~5.500 quân, 30 xe tăng, 52 máy bay Hỗ Trợ: | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
2.656 chết 7.250 bị thương Hơn 340 bị bắt 1.063 xe tăng bị phá hủy, bị hư hại hoặc bị thu giữ 407 xe thiết giáp bị phá hủy hoặc bị thu giữ 102-387 máy bay bị phá hủy[9] 3 chết, 24 bị thương, không tàu nào bị thiệt hại (trên biển) |
Ai Cập: ~5.000 chết Syria: 2.704 chết hoặc mất tích Iraq: 278 chết, 898 bị thương 50 xe tăng và xe bọc thép |
Quân Ai Cập và Syria chiến thắng trong vòng 5 ngày đầu, sau đó tình hình xoay chuyển theo hướng có lợi cho Israel. Tới tuần thứ hai của cuộc chiến, quân Syria đã bị đánh bật khỏi Cao nguyên Golan. Tại Sinai, quân Israel đánh vào chỗ nối tiếp hai đạo quân Ai Cập, vượt kênh đào Suez (là tuyến ngưng bắn trước đó), đe dọa cô lập Quân đoàn 3 Ai Cập, trước khi lệnh ngưng bắn của Liên Hợp Quốc có hiệu lực.
Cuộc chiến có ảnh hưởng sâu rộng vì nhiều lý do khác nhau. Thế giới Ả Rập, vốn bị thua đau trong cuộc chiến tranh Sáu ngày, phấn chấn về mặt tâm lý bởi một chuỗi chiến thắng lúc mở màn cuộc chiến. Đối với Israel, tuy phản công thắng lợi vào giai đoạn sau, nhưng tổn thất nặng về vũ khí và nhân lực khiến nước này bị sốc và cảm thấy cần đàm phán hòa bình với khối Ả Rập. Tâm lý này mở đường cho cho quá trình đàm phán hòa bình tiếp đó, và cũng khởi đầu cho các chính sách tự do hóa của Ai Cập. Hiệp định hòa bình Trại David (1978) dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Ai Cập và Israel—lần đầu tiên một quốc gia Ả Rập công nhận quốc gia Do Thái, đổi lại Israel sẽ trả lại lãnh thổ đã chiếm của Ai Cập. Chính phủ Ai Cập, sau khi đạt được mục đích, đã bắt đầu xa lánh và tách hoàn toàn khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô (cũ).