Lexington (lớp tàu sân bay)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp tàu sân bay Lexington bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ.[1] Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ nhất như những tàu chiến-tuần dương, chúng được cải biến trong khi đang được chế tạo thành những tàu sân bay để tuân thủ những quy định của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Chiếc thứ ba trong lớp, Saratoga, được hoàn tất nhiều hơn so với chiếc thứ hai Constellation khi những con tàu được xem xét việc cải biến, nên Saratoga được tiếp tục chế tạo và Constellation bị tháo dỡ. Các hoạt động trên quy mô lớn thành công đối với những tàu tàu sân bay trong lớp khi so với những hoạt động hạn chế trên chiếc tàu sân bay Ranger nhỏ hơn nhiều đã thuyết phục được Hải quân rằng những tàu sân bay lớn sẽ có hiệu quả hơn những chiếc nhỏ, một xu hướng được tiếp nối trong nhiều năm sau đó.
Tàu sân bay USS Lexington (CV-2) đang phóng một máy bay ném ngư lôi, khoảng năm 1929 | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp tàu sân bay Lexington |
Xưởng đóng tàu |
|
Bên khai thác | Hải quân Hoa Kỳ |
Lớp trước | Langley |
Lớp sau | Ranger |
Thời gian đóng tàu | 1920 - 1925 |
Chế tạo | 6 chiếc (được đặt lườn như tàu chiến-tuần dương) |
Hoàn thành | 2 chiếc (được hạ thủy như tàu sân bay) |
Hủy bỏ | 4 |
Bị mất | 1 |
Nghỉ hưu | 1 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu sân bay |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 270,6 m (888 ft) |
Sườn ngang | 32,3 m (106 ft) |
Mớn nước | 7,4 m (24 ft 3 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 61,5 km/h (33,25 knot) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 2.122 |
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 91 |
Ngoài kích cỡ rất ấn tượng, đặc tính tiên tiến nhất của chúng là "mũi tàu chống bão", một cấu hình tàu sân sân bay mà mũi tàu được làm kín cho đến sàn đáp. Kết cấu như vậy được cho là hữu ích nhất trong số ba cấu hình dành cho mũi tàu sân bay (các cấu hình khác bao gồm một sàn cất cánh bổ sung hoặc một sàn hỏa lực phòng không).