From Wikipedia, the free encyclopedia
Louis XIV của Pháp (Louis Dieudonné; 5 tháng 9 năm 1638 – 1 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là Louis Đại đế (Louis the Great, Louis le Grand) hay Vua Mặt Trời (The Sun King, le Roi Soleil), là một quân chủ thuộc Nhà Bourbon, đã cai trị với danh hiệu Vua của Pháp và Navarra từ ngày 14 tháng 5 năm 1643 cho đến khi ông qua đời vào năm 1715. Ông được xem là một trong những nhà chinh phạt lớn trong lịch sử.[1] Triều đại kéo dài 72 năm 110 ngày đã khiến ông trở thành vị vua của một quốc gia có chủ quyền tại vị lâu nhất trong lịch sử.[2][lower-alpha 1] Pháp dưới thời Louis XIV là biểu tượng của thời đại chuyên chế ở châu Âu.[4] Xung quanh nhà vua là hàng loạt nhân vật chính trị, quân sự và văn hóa quan trọng, chẳng hạn như Mazarin, Colbert, Louvois, Grand Condé, Turenne, Vauban, Boulle, Molière, Racine, Boileau, La Fontaine, Lully, Charpentier, Marais, Le Brun, Rigaud, Bossuet, Le Vau, Mansart, Charles Perrault, Claude Perrault và Le Nôtre.
Louis XIV của Pháp | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Mặt trời | |||||
Louis XIV, họa phẩm của Hyacinthe Rigaud năm 1701 | |||||
Quốc vương nước Pháp và Navarra | |||||
Tại vị | 14 tháng 5 năm 1643 – 1 tháng 9 năm 1715 72 năm, 110 ngày | ||||
Đăng quang | 7 tháng 6 năm 1654 | ||||
Nhiếp chính | Ana của Tây Ban Nha (1643-1651) | ||||
Tiền nhiệm | Louis XIII | ||||
Kế nhiệm | Louis XV | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 5 tháng 9 năm 1638 Château de Saint-Germain-en-Laye, Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp | ||||
Mất | 1 tháng 9 năm 1715 (76 tuổi) Lâu đài Versailles, Versailles, Vương quốc Pháp | ||||
An táng | Nhà thờ Saint-Denis, Saint-Denis, Pháp | ||||
Phối ngẫu | María Teresa của Tây Ban Nha Françoise d'Aubigné | ||||
Hậu duệ | Louis, Thái tử nước Pháp Anne-Elisabeth của Pháp Marie-Anne của Pháp Marie-Thérèse của Pháp Philippe-Charles của Pháp Louis-François của Pháp | ||||
| |||||
Vương tộc | Nhà Bourbon | ||||
Thân phụ | Louis XIII của Pháp | ||||
Thân mẫu | Ana của Tây Ban Nha | ||||
Chữ ký |
Ông lên ngôi khi được 4 tuổi, và được mẹ là Ana của Tây Ban Nha nhiếp chính. Khi lên 9 tuổi, sau những cuộc nổi loạn, ông được dẫn đi ẩn náu khỏi kinh đô Paris. Ông cảm thấy bị sỉ nhục và nhất quyết muốn tự chủ, không để ai chi phối như Hồng y Richelieu đã chi phối cha ông và Hồng y Mazarin đã chi phối mẹ ông. Cũng từ đây trở về sau, ông có ác cảm với kinh đô Paris và không bao giờ muốn trở lại thành phố này. Năm 1661, khi được 23 tuổi, Louis XIV mới chính thức cai trị vương quốc sau cái chết của Hồng y Mazarin.[5] Là một người tuân thủ khái niệm về quyền lực thần thánh, Louis XIV chủ trương thiết lập một triều đình chuyên chế, xóa bỏ tàn dư phong kiến phân quyền đã ảnh hưởng sâu sắc toàn bộ nước Pháp, và một trong những việc này là tiến hành xây dựng Điện Versailles.
Năm 1666, ông chọn địa điểm của cung điện cho riêng ông, cách Paris 20 kílômét về hướng tây, rồi ra lệnh thi công. Ông huy động 36.000 công nhân, thêm 6.000 ngựa để chuyên chở vật liệu xây dựng. Thương vong của công nhân khá cao. Mỗi đêm, xe goòng đi nhặt xác chết do tai nạn nghề nghiệp. Hàng chục người chết mỗi tuần vì sốt rét. Năm 1682, Điện Versailles hoàn thành, trở thành một cung điện vĩ đại nhất thế giới. Điện Versailles không có thành lũy, vị vua đã xây cung điện trị vì không được che chắn, giữa đồng trống, để chứng tỏ một đấng quân vương đủ quyền lực không cần đến hào và tường thành để bảo vệ. Versailles trở thành biểu tượng của vị thế giàu có và quyền lực của đế chế hùng mạnh nhất châu Âu. Trên toàn lục địa, những quân vương khác – kể cả người đang có chiến tranh với Pháp – thể hiện tình thân hữu, lòng ganh tỵ và thách đố họ bằng cách xây cung điện theo mẫu Versailles. Mỗi quân vương đều muốn xây một Versailles cho riêng mình. Ngay cả những đại lộ dài và hoành tráng ở thủ đô Washington, D.C. của Mỹ, được quy hoạch 100 năm sau, cũng do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế tổng thể theo mẫu Versailles.
Sau khi hoàn thành Điện Versailles, Louis XIV đã triệu tập các nhà quý tộc của Pháp dời đến trong triều đình để định cư, làm dịu đi những sự phân tranh của tầng lớp quý tộc, trong đó có nhiều người tham gia vào cuộc Biến loạn Fronde khi ông còn đang giai đoạn nhiếp chính. Bằng cách này, Louis XIV đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối của các Vua Pháp, được duy trì mãi tận đến khi xảy ra cuộc Cách mạng Pháp.
Quân đội Pháp bao gồm 15 vạn binh sĩ vào thời bình và 40 vạn quân tinh nhuệ trong thời chiến. Bản thân vua Louis XIV không có kinh nghiệm chiến trường, nhưng ông là nhà chiến lược và quản lý quân sự tài ba. Kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Chiến tranh, nhà vua bàn luận về vĩ mô chiến lược với các tướng lĩnh dày dạn trận mạc của ông, rồi chỉ đạo các hoạt động cung ứng quân nhu, tuyển quân, huấn luyện, tình báo quân đội... Theo thời gian, uy tín của Louis XIV và của nước Pháp dâng cao mỗi năm. Quân đội Pháp trở nên đáng sợ nhất châu Âu. Turenne - vị thống soái được Hoàng đế Napoléon Bonaparte ngợi ca là Vị tướng Pháp vĩ đại nhất - đã phò tá dưới triều vua Louis XIV.[6] Vào năm 1672, nhà vua sai tướng Turenne mang quân đi đánh Hà Lan nhưng không thành, phải rút lui.[7] Vẻ lộng lẫy của cung điện Versailles dấy lên lòng ngưỡng mộ và ganh tỵ của thế giới. Tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ phổ cập trong ngoại giao, xã hội và văn học. Dường như bất kỳ việc gì – mọi việc – đều khả thi, nếu dưới văn bản chỉ thị có mang chữ ký cao to, nguệch ngoạc "Louis".
Những năm cuối của triều đại Louis XIV xảy ra nhiều thảm họa. Trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, liên quân Anh - Áo - Phổ do Công tước thứ nhất của Marlborough, Leopold I xứ Anhalt-Dessau và Vương công Eugène de Savoie-Carignan chỉ huy đập tan tác Quân đội vua Louis XIV trong trận đánh lớn tại Blenheim (1704)[8] - một đòn đánh cực kỳ đau vào quân Pháp.[9] Sau chiến bại thê thảm tại Blenheim, Quân đội vua Louis XIV lại bị Quận công Marlborough đại phá trong trận đánh tại Ramilies (1706).[10] Cùng năm đó, liên quân Áo - Phổ của Vương công Leopold và Vương công Eugène đè bẹp trong trận đánh tại Turin.[11] Mãi đến năm 1712, Quân đội Pháp do Thống chế Claude-Louis-Hector de Villars thống lĩnh mới đánh tan tác liên quân Áo - Hà Lan của Eugène trong trận đánh nhỏ tại Denain.[12][13] Song, người con chính thức độc nhất, người kế vị ngai vàng của nhà vua, qua đời năm 1711. Con trai của ông, Quận công của Bourgogne, hiện thân cho niềm hy vọng của nước Pháp trong tương lai, qua đời năm 1711 vì bệnh sởi ở tuổi 30. Đứa con trai trưởng của Quận công, cháu nội của Louis XIV, cũng chết vì bệnh sởi ít ngày sau.
Chỉ còn có một đứa trẻ thuộc dòng dõi kế vị ngai vàng trực tiếp, mới lên 2, là cháu kêu Louis XIV bằng ông cố. Đứa trẻ này cũng mắc bệnh sởi, nhưng thoát chết nhờ người bảo mẫu nhốt kín cậu bé và không cho phép các bác sĩ sờ đến cậu với hai bàn tay mang những bọc mọng nước. Hoàng tôn này được sống sót để trị vì nước Pháp trong 59 năm dưới hiệu là Louis XV. Trên giường bệnh, Louis XIV triệu người chắt lên 5 tuổi đến và nói: "Cháu ạ, một ngày cháu sẽ là vị Quân chủ vĩ đại. Đừng bắt chước tính hiếu chiến của ta. Hãy luôn hành xử dựa theo Chúa và khiến cho thần dân phải trọng vọng Người. Ta đau lòng mà thấy đã để cho thần dân trong tình trạng như thế."[14]
Vua Louis XIV qua đời năm 1715 sau khi trị vì 72 năm, thọ 76 tuổi. Có lẽ ông là vị Vua vĩ đại nhất của Pháp[14]. Những vị vua kế tục ông không tham vọng như ông, và huyền thoại về một lực lượng Quân đội Pháp bất khả chiến bại đã bị phá vỡ tan tành với việc họ bị Quân đội tinh nhuệ Phổ của vua Friedrich II Đại Đế đè bẹp trong trận đánh lớn tại Rossbach (1757), và sau này là đại bại trong Chiến tranh Bảy năm trước người Anh, và mất hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào tay Anh.[15][16]
Louis XIV sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1638, tại Lâu đài Château de Saint-Germain-en-Laye, là con trai của Louis XIII của Pháp và vương hậu Ana của Áo. Cha mẹ của ông đã kết hôn được 23 năm trước khi sinh ra ông. Mẹ ông đã từng mang thai bốn lần, nhưng cả bốn lần đều bị hỏng. Do đó, mọi người coi ông như là một món quà mà Thiên Chúa ban tặng, và ngày sinh của ông là một phép lạ của Chúa Trời.[17] Cũng vì vậy mà ông được đặt tên Louis-Dieudonné (Louis Chúa ban)[18] và sớm mang danh hiệu Trữ quân nước Pháp: Dauphin.[19]
Năm 1643, khi đang hấp hối, Louis XIII đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để giúp đỡ con trai mình trong những năm đầu trên ngai vàng. Ông lập một Hội đồng nhiếp chính, tạm quyền thay cho Louis trong thời gian còn thơ ấu. Trái ngược với truyền thống, ông không cho vợ Anne độc chiếm chức nhiếp chính vì ông không chắc chắn về tài năng chính trị của bà. Nhưng ông đã nhượng bộ về việc bổ nhiệm Anne trở thành người đứng đầu Hội đồng.[20]
Quan hệ giữa Louis và mẹ ông được xem là hiếm có vào thời điểm đó. Nhiều người đương thời cho rằng, Vương hậu Anne gần như đã dành toàn bộ thời gian với Louis. Cả hai đều có những sở thích về ẩm thực và nghệ thuật sân khấu. Cũng chính thái hậu đã khiến Louis vững tin thực hiện ý niệm tiến hành quân chủ chuyên chế của mình.[21]
Ngày sau khi Louis XIII qua đời vào ngày 14 tháng 5 năm 1643, Vương hậu Anne đã dùng Parlement de Paris (một cơ quan tư pháp bao gồm chủ yếu là quý tộc và giáo sĩ cao cấp) để tuyên bố hủy bỏ di chúc của chồng.[22] Hành động này đã bãi bỏ hội đồng nhiếp chính và đưa Anne trở thành Nhiếp chính duy nhất của Pháp. Sau khi lưu đày một số Bộ trưởng thân cận của chồng, Anne đã đề bạt Brienne làm Bộ trưởng Ngoại giao của mình.[23]
Anne giữ vững đường hướng chính sách tôn giáo trong tay cho đến năm 1661. Một trong những quyết định chính trị quan trọng nhất của bà là đề cử Hồng y Mazarin làm Thủ tướng, tiếp tục chính sách của người chồng quá cố và Hồng y Richelieu. Để bảo vệ Mazarin, Anne đã đày ải những ai mà bà cho rằng đang có âm mưu chống lại ông ta như Công tước Beaufort và Marie de Rohan.[24] Vương hậu cũng là người đưa ra một số định hướng cho đường lối đối ngoại của Pháp. Điều này có thể cảm nhận được khi một đồng minh của Pháp là Hà Lan đã đàm phán với Tây Ban Nha về một nền hòa bình độc lập vào năm 1648.[25]
Năm 1648, Anne và Mazarin đàm phán thành công Hòa ước Westfalen, kết thúc Chiến tranh Ba Mươi Năm.[26] Các điều khoản của hòa ước đảm bảo sự độc lập của Hà Lan khỏi Tây Ban Nha, trao một số quyền tự trị cho các hoàng tử Đức khác nhau của Đế quốc La Mã Thần thánh, và cho Thụy Điển các ghế trong Hội đồng Hoàng gia cũng như các vùng lãnh thổ để kiểm soát các cửa sông Oder, Elbe và Weser.[27] Tuy nhiên, Pháp được hưởng lợi nhiều nhất từ việc dàn xếp này. Áo dưới sự cai trị của Hoàng đế Ferdinand III đã nhượng lại tất cả các vùng đất và tuyên bố chủ quyền của nhà Habsburg ở Alsace cho Pháp và thừa nhận chủ quyền trên thực tế của mình đối với ba giáo phận Metz, Verdun và Toul.[28] Hơn nữa, với mong muốn tự giải phóng khỏi ách thống trị của Habsburg, các quốc gia nhỏ bé của Đức đã tìm kiếm sự bảo vệ của Pháp. Điều này đã dẫn đến sự hình thành của Liên đoàn sông Rhine năm 1658, làm sự suy giảm hơn nữa quyền lực của Đế quốc.
Sau khi Chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc, một cuộc nội chiến Fronde đã nổ ra ở Pháp. Cuộc nội chiến này cũng đã kiểm nghiệm khả năng khai thác quyền lợi từ Hòa ước Westfalen của triều đình Pháp. Anne và Mazarin chủ yếu theo đuổi các chính sách của Đức Hồng Y Richelieu, làm tăng sức mạnh của Vương vị trong giới quý tộc và Parlements. Vương Thái hậu Anne can thiệp nhiều vào chính sách đối nội hơn là đối ngoại; bà là một vương hậu rất kiêu hãnh, người kiên định với các quyền thiêng liêng của Vua nước Pháp.[29]
Tất cả những điều này đã khiến bà trở thành một nhà quyết sách mạnh mẽ trong mọi vấn đề liên quan đến quyền lực của Nhà vua, theo cách cấp tiến hơn nhiều so với chính sách do Mazarin đề xuất. Hồng y phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ của Anne và phải sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình lên Vương hậu để kiềm chế một số hành động cấp tiến của bà. Anne sẵn sàng bỏ tù bất kỳ ai kể cả giới quý tộc nếu họ thách thức ý chí của bà; mục đích chính của bà là chuyển giao cho con trai mình một quyền hành tuyệt đối trong các vấn đề tài chính và tư pháp. Một trong những lãnh đạo của Quốc hội Paris đã chết sau khi bị Vương hậu bắt bỏ tù.[30]
Trong bối cảnh đó, Frondeurs – những người thừa kế chính trị của tầng lớp quý tộc phong kiến – đã cực kỳ bất mãn và tìm mọi cách để bảo vệ quyền lợi bao đời nay của họ khỏi một triều đình ngày càng tập quyền. Bên cạnh đó, một lực lượng mới nổi lên là Noblesse de Robe (quý tộc áo choàng) đã dần lấy được sự tin tưởng của những người đứng đầu vương quốc. Niềm tin của triều đình càng lớn, sự phẫn uất của quý tộc càng gia tăng.
Năm 1648, Anne và Mazarin cố gắng đánh thuế các thành viên của Parlement de Paris (Quốc hội Paris). Các thành viên Quốc hội đã từ chối tuân thủ và tỏ ra phản kháng bằng cách đốt tất cả các sắc lệnh trước kia của nhà vua. Trước sự khăng khăng của Vương hậu Anne, Mazarin đã tiến hành bắt giữ một số người tham gia Trận Lens để phô trương vũ lực sau chiến thắng của Louis, duc d’Enghien (sau này được gọi là le Grand Condé).[31] Một trong những vụ bắt giữ quan trọng nhất trong mắt Anne liên quan đến Pierre Broussel, một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất ở Parlement de Paris.
Bắt đầu có sự phàn nàn trong dân chúng khi quyền lực của vương thất ngày càng mở rộng, mức thuế tăng cao và quyền lực của Parlement de Paris bị cắt giảm. Dưới áp lực dữ dội sau khi Paris nổ ra bạo loạn, Anne buộc phải trả tự do cho Broussel. Vào đêm 9-10 tháng 2 năm 1651, khi Louis chỉ mới 12 tuổi, một đám đông người Paris đã xông vào cung điện và yêu cầu được gặp mặt nhà vua. Sau khi được nhìn thấy Louis trong tình trạng giả vờ ngủ, đám đông đã được xoa dịu và chấp nhận rời đi.[32]
Ngày sau đó, kết luận của Hòa ước Westfalen đã cho phép quân đội của Condé quay trở lại để trợ giúp Louis và vương thất. Vào thời điểm đó, gia đình Condé có mối quan hệ cực kỳ tốt với Anne, và ông đã đồng ý hỗ trợ Vương hậu giành lại quyền lực của nhà vua.[33] Quân đội của Vương hậu với sự đứng đầu của Condé đã tấn công vào quân nổi dậy Paris. Sau một vài trận chiến, cả hai bên đã đạt được một thỏa hiệp chính trị, Hòa ước Rueil được ký kết.
Không may cho Anne là chiến thắng một phần này của bà phụ thuộc phần lớn vào Condé – một người có dã tâm kiểm soát Vương hậu và triệt tiêu sức ảnh hưởng của Mazarin. Chính chị gái của Condé là người đã thúc đẩy anh quay lưng lại với Vương hậu. Sau khi đạt được thỏa thuận với người bạn cũ Marie de Rohan, Anne đã ra lệnh bắt giữ Condé cùng với một số người thân của ông ta gồm Armand de Bourbon, Hoàng tử xứ Conti và chồng của Anne Genevieve de Bourbon, Nữ công tước xứ Longueville. Tình trạng này cũng không kéo dài, đặc biệt việc Mazarin không được lòng dân đã dẫn đến sự hình thành của một liên minh do Marie de Rohan và Nữ công tước Longueville đứng đầu. Liên minh quý tộc này đủ mạnh để giải phóng các vương tử, đày ải Mazarin và áp đặt điều kiện quản thúc tại gia đối với Vương hậu Anne.
Louis đã chứng kiến tất cả những sự việc này, cũng từ đây mà ông ngày càng mất lòng tin đối với Paris và tầng lớp quý tộc.[34] Theo một nghĩa nào đó, thời thơ ấu của Louis đã kết thúc với sự bùng nổ của Fronde. Nó không chỉ khiến cuộc sống trở nên bất an và khó chịu mà Louis còn phải tin tưởng vào sự tin tưởng của mẹ và Mazarin cũng như những vấn đề chính trị và quân sự mà ông không thể hiểu sâu sắc".[35] Những năm Fronde đã gieo vào Louis lòng căm thù Paris và hậu quả là quyết tâm rời khỏi cố đô càng sớm càng tốt, không bao giờ quay trở lại.[36]
Ngay khi Fronde đầu tiên (Fronde parlementaire năm 1648–1649) kết thúc, một cuộc chiến thứ hai (Fronde des princes năm 1650–1653) bắt đầu. Không giống như cuộc trước đó, những câu chuyện về âm mưu đen tối và chiến tranh nửa vời đã đặc trưng cho giai đoạn nổi loạn thứ hai này của tầng lớp thượng lưu. Đối với tầng lớp quý tộc, cuộc nổi loạn này đại diện cho một cuộc phản đối đảo ngược sự giáng chức chính trị của họ từ chư hầu xuống triều thần. Cuộc nổi loạn này được lãnh đạo bởi những nhà quý tộc Pháp cấp cao nhất, trong số đó có chú của Louis là Gaston, Công tước xứ Orléans và em họ đầu tiên Anne Marie Louise d'Orléans, Nữ công tước xứ Montpensier, được gọi là la Grande Mademoiselle; Các hoàng tử trong dòng máu như Condé, anh trai của ông là Armand de Bourbon, Hoàng tử xứ Conti và em gái của họ là Nữ công tước xứ Longueville; các công tước có dòng dõi hoàng gia hợp pháp, như Henri, Công tước xứ Longueville và François, Công tước xứ Beaufort; cái gọi là "hoàng tử xứ lạ" như Frédéric Maurice, Công tước xứ Bouillon, em trai của ông là Thống chế Turenne, và Marie de Rohan, Nữ công tước xứ Chevreuse; và hậu duệ của những gia tộc lâu đời nhất của Pháp, như François de La Rochefoucauld.
Nữ hoàng Anne đóng vai trò quan trọng nhất trong việc đánh bại Fronde vì bà muốn chuyển giao quyền lực tuyệt đối cho con trai mình. Ngoài ra, hầu hết các hoàng tử đều từ chối giao dịch với Mazarin, người đã lưu vong trong nhiều năm. Frondeurs tuyên bố hành động thay mặt Louis và vì lợi ích thực sự của ông, chống lại mẹ ông và Mazarin.
Nữ hoàng Anne có mối quan hệ rất thân thiết với Hồng y, và nhiều nhà quan sát tin rằng Mazarin đã trở thành cha dượng của Louis XIV thông qua một cuộc hôn nhân bí mật với Nữ hoàng Anne.[37] Tuy nhiên, việc Louis trưởng thành và lễ đăng quang sau đó đã tước đi cái cớ nổi loạn của Frondeurs. Fronde dần mất đà và kết thúc vào năm 1653, khi Mazarin trở về sau cuộc lưu đày đầy chiến thắng. Từ thời điểm đó cho đến khi qua đời, Mazarin phụ trách chính sách đối ngoại và tài chính mà không có sự giám sát hàng ngày của Anne, người không còn là nhiếp chính nữa.[38]
Trong thời gian này, Louis đã yêu cháu gái của Mazarin là Marie Mancini, nhưng Anne và Mazarin đã chấm dứt sự say mê của nhà vua bằng cách đuổi Mancini khỏi triều đình để kết hôn ở Ý. Trong khi Mazarin có thể đã bị cám dỗ trong một thời gian ngắn để gả cháu gái mình cho Vua nước Pháp, thì Nữ hoàng Anne hoàn toàn phản đối điều này; bà muốn gả con trai mình cho con gái của em trai mình, Philip IV của Tây Ban Nha, vì cả lý do triều đại và chính trị. Mazarin sớm ủng hộ lập trường của Nữ hoàng vì ông biết rằng sự ủng hộ của bà đối với quyền lực và chính sách đối ngoại của ông phụ thuộc vào việc lập hòa bình với Tây Ban Nha từ một vị thế vững chắc và vào cuộc hôn nhân với Tây Ban Nha. Ngoài ra, mối quan hệ của Mazarin với Marie Mancini không tốt và ông không tin tưởng bà sẽ ủng hộ lập trường của mình. Tất cả những giọt nước mắt của Louis và lời cầu xin của ông với mẹ mình không làm bà thay đổi quyết định. Cuộc hôn nhân với Tây Ban Nha sẽ rất quan trọng vì vai trò của nó trong việc chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và Tây Ban Nha, vì nhiều yêu sách và mục tiêu của chính sách đối ngoại của Louis trong 50 năm tiếp theo sẽ dựa trên cuộc hôn nhân này, và vì chính thông qua cuộc hôn nhân này mà ngai vàng Tây Ban Nha cuối cùng sẽ được trao cho Nhà Bourbon.
Louis XIV được tuyên bố đã đến tuổi trưởng thành vào ngày 7 tháng 9 năm 1651. Sau cái chết của Mazarin, vào tháng 3 năm 1661, Louis đích thân nắm quyền điều hành chính phủ và làm kinh ngạc triều đình của mình khi tuyên bố rằng ông sẽ cai trị mà không cần một bộ trưởng: "Cho đến thời điểm này, trẫm rất vui khi giao phó việc điều hành các công việc của trẫm cho cố Hồng y. Bây giờ đã đến lúc trẫm tự mình điều hành chúng. Các [thư ký và bộ trưởng] sẽ hỗ trợ trẫm bằng các cố vấn của mình khi trẫm yêu cầu. trẫm yêu cầu và ra lệnh cho các khanh không được đóng dấu bất kỳ lệnh nào trừ khi có lệnh của trẫm... Trẫm ra lệnh cho các khanh không được ký bất cứ thứ gì, ngay cả hộ chiếu... nếu không có lệnh của trẫm; phải giải trình với trẫm mỗi ngày và không được thiên vị bất kỳ ai".[39] Tận dụng mong muốn rộng rãi của công chúng về hòa bình và trật tự sau nhiều thập kỷ xung đột giữa nước ngoài và dân sự, vị vua trẻ đã củng cố quyền lực chính trị trung ương và bằng cái giá phải trả là tầng lớp quý tộc phong kiến. Ca ngợi khả năng lựa chọn và khuyến khích những người có tài năng, nhà sử học Chateaubriand lưu ý: "đó là tiếng nói của mọi thiên tài vang lên từ lăng mộ của Louis".[40]
Louis bắt đầu triều đại của mình bằng các cải cách hành chính và tài chính. Năm 1661, kho bạc đứng bên bờ vực phá sản. Để khắc phục tình hình, Louis đã chọn Jean-Baptiste Colbert làm Tổng kiểm toán Tài chính vào năm 1665. Tuy nhiên, trước tiên Louis phải vô hiệu hóa Nicolas Fouquet, Tổng giám đốc Tài chính quyền lực. Mặc dù những hành vi thiếu thận trọng về tài chính của Fouquet không khác mấy so với Mazarin trước ông hoặc Colbert sau ông, nhưng tham vọng của ông khiến Louis lo lắng. Ông đã chiêu đãi nhà vua một cách xa hoa tại lâu đài xa hoa Vaux-le-Vicomte, phô trương sự giàu có mà khó có thể tích lũy được nếu không thông qua việc biển thủ tiền của chính phủ.
Fouquet tỏ ra háo hức muốn kế nhiệm Mazarin và Richelieu nắm quyền, và ông đã mua và bí mật củng cố hòn đảo xa xôi Belle Île. Những hành động này đã định đoạt số phận của ông. Fouquet bị buộc tội biển thủ; Parlement (Quốc hội) tuyên bố ông có tội và tuyên án lưu đày; và cuối cùng Louis đã thay đổi bản án thành tù chung thân.
Sự sụp đổ của Fouquet đã trao cho Colbert toàn quyền giảm nợ quốc gia thông qua việc đánh thuế hiệu quả hơn. Các loại thuế chính bao gồm thuế phụ tá và thuế douanes (cả hai đều là thuế hải quan), thuế gabelle (thuế muối) và thuế taille (thuế đất). Lúc đầu, thuế taille đã được giảm và một số hợp đồng thu thuế đã được đấu giá thay vì được bán riêng cho một số ít người được ưu ái. Các viên chức tài chính được yêu cầu phải giữ sổ sách thường xuyên, xem xét lại hàng tồn kho và xóa bỏ các khoản miễn trừ trái phép: cho đến năm 1661, chỉ có 10 phần trăm thu nhập từ lãnh địa hoàng gia đến tay nhà vua. Cải cách phải vượt qua các lợi ích cố hữu: thuế taille được thu bởi các viên chức của triều đình, những người đã mua chức vụ của họ với giá cao và việc trừng phạt những hành vi lạm dụng chắc chắn sẽ làm giảm giá trị của giao dịch mua. Tuy nhiên, Colbert đã đạt được những kết quả tuyệt vời, với thâm hụt năm 1661 chuyển thành thặng dư vào năm 1666, với lãi suất nợ giảm từ 52 triệu xuống còn 24 triệu livre. Taille giảm xuống còn 42 triệu vào năm 1661 và 35 triệu vào năm 1665, trong khi doanh thu từ thuế gián tiếp tăng từ 26 triệu lên 55 triệu. Doanh thu của lãnh địa hoàng gia đã tăng từ 80.000 livre vào năm 1661 lên 5,5 triệu vào năm 1671. Năm 1661, số tiền thu được tương đương với 26 triệu bảng Anh, trong đó 10 triệu đã vào kho bạc. Chi tiêu vào khoảng 18 triệu bảng Anh, để lại thâm hụt 8 triệu. Năm 1667, số tiền thu ròng đã tăng lên 20 triệu bảng Anh, trong khi chi tiêu đã giảm xuống còn 11 triệu, để lại thặng dư 9 triệu bảng Anh.
Tiền là nguồn hỗ trợ thiết yếu cho quân đội được tổ chức lại và mở rộng, cho quân trang của Versailles và cho chính quyền dân sự đang phát triển. Tài chính luôn là điểm yếu của chế độ quân chủ Pháp: việc thu thuế tốn kém và không hiệu quả; thuế trực tiếp giảm dần khi chúng đi qua tay nhiều viên chức trung gian; và thuế gián tiếp được thu bởi các nhà thầu tư nhân được gọi là nông dân thuế, những người đã kiếm được một khoản lợi nhuận lớn. Kho bạc nhà nước bị rò rỉ ở mọi ngóc ngách.
Điểm yếu chính nảy sinh từ một thỏa thuận cũ giữa vương triều Pháp và giới quý tộc: nhà vua có thể tăng thuế cho quốc gia mà không cần sự đồng ý nếu ông miễn thuế cho giới quý tộc. Chỉ những tầng lớp "không có đặc quyền" mới phải trả thuế trực tiếp, tức là chỉ dành cho nông dân, vì hầu hết những người tư sản đều gian lận để được miễn thuế theo cách này hay cách khác. Hệ thống này đổ toàn bộ gánh nặng chi tiêu của nhà nước lên lưng những người nghèo và bất lực. Sau năm 1700, với sự ủng hộ của người vợ bí mật ngoan đạo của Louis là Madame de Maintenon, nhà vua đã bị thuyết phục thay đổi chính sách tài chính của mình. Mặc dù sẵn sàng đánh thuế giới quý tộc, Louis vẫn lo sợ những nhượng bộ chính trị mà họ sẽ yêu cầu để đổi lại. Chỉ đến khi triều đại của ông kết thúc trong tình trạng chiến tranh cực kỳ cấp bách, ông mới có thể lần đầu tiên trong lịch sử nước Pháp áp đặt thuế trực tiếp lên tầng lớp quý tộc. Đây là một bước tiến tới bình đẳng trước pháp luật và hướng tới nền tài chính công lành mạnh, mặc dù nó đã bị suy giảm một cách có thể dự đoán được do những nhượng bộ và miễn trừ giành được nhờ những nỗ lực bền bỉ của giới quý tộc và tư sản.[41]
Louis và Colbert cũng có những kế hoạch rộng khắp để phát triển thương mại và mậu dịch của Pháp. Chính quyền trọng thương của Colbert đã thành lập các ngành công nghiệp mới và khuyến khích các nhà sản xuất và nhà phát minh, chẳng hạn như các nhà sản xuất lụa Lyon và xưởng sản xuất thảm thêu Gobelins. Ông đã mời các nhà sản xuất và nghệ nhân từ khắp châu Âu đến Pháp, chẳng hạn như thợ làm thủy tinh Murano, thợ sắt Thụy Điển và thợ đóng tàu Hà Lan. Ông đặt mục tiêu giảm lượng nhập khẩu trong khi tăng lượng xuất khẩu của Pháp, do đó giảm lượng kim loại quý chảy ra ròng từ Pháp.
Louis đã tiến hành cải cách trong chính quyền quân sự thông qua Michel le Tellier và con trai ông là François-Michel le Tellier, Hầu tước de Louvois kế nhiệm. Họ đã giúp kiềm chế tinh thần độc lập của giới quý tộc, áp đặt trật tự lên họ tại triều đình và trong quân đội. Đã qua rồi cái thời các vị tướng kéo dài chiến tranh ở biên giới trong khi cãi vã về tiền lệ và phớt lờ mệnh lệnh từ thủ đô và bức tranh chiến lược lớn hơn, với tầng lớp quý tộc quân sự cũ (noblesse d'épée, quý tộc của thanh kiếm) độc quyền các vị trí quân sự cấp cao và cấp bậc cao hơn. Louvois đã hiện đại hóa quân đội và tổ chức lại thành một lực lượng chuyên nghiệp, kỷ luật và được đào tạo bài bản. Ông tận tụy với sự thịnh vượng về vật chất và tinh thần của binh lính, thậm chí còn cố gắng chỉ đạo các chiến dịch.
Các cải cách pháp lý của Louis đã được ban hành trong nhiều Sắc lệnh vĩ đại của ông. Trước đó, nước Pháp là một mớ hỗn độn các hệ thống pháp luật, với nhiều chế độ pháp lý truyền thống như số tỉnh và hai hệ thống pháp luật cùng tồn tại—luật tục ở phía bắc và luật dân sự La Mã ở phía nam.[42] Grande Ordonnance de Procédure Civile năm 1667, Bộ luật Louis, là một bộ luật toàn diện áp đặt quy định thống nhất về tố tụng dân sự trên toàn vương quốc. Trong số những điều khác, nó quy định hồ sơ rửa tội, kết hôn và tử vong trong sổ đăng ký của nhà nước, không phải của nhà thờ, và nó quy định chặt chẽ quyền phản đối của Parlement.[43] Bộ luật Louis sau đó trở thành cơ sở cho bộ luật Napoleon, sau đó truyền cảm hứng cho nhiều bộ luật hiện đại.
Một trong những sắc lệnh khét tiếng hơn của Louis là Grande Ordonnance sur les Colonies năm 1685, Bộ luật Noir (bộ luật đen). Mặc dù nó cho phép chế độ nô lệ, nhưng nó đã cố gắng nhân bản hóa thực hành này bằng cách cấm việc chia cắt các gia đình. Ngoài ra, tại các thuộc địa, chỉ những người Công giáo La Mã mới được sở hữu nô lệ và những người này phải được rửa tội.
Louis cai trị thông qua một số hội đồng:
Bài viết chính: Chiến tranh phân quyền và Chiến tranh Pháp-Hà Lan
Cái chết của chú ruột của Louis, Vua Philip IV của Tây Ban Nha vào năm 1665 đã thúc đẩy Chiến tranh Phân quyền. Năm 1660, Louis đã kết hôn với con gái cả của Philip IV, Maria Theresa, theo một trong những điều khoản của Hiệp ước Pyrenees năm 1659.[45] Hiệp ước hôn nhân nêu rõ rằng Maria Theresa phải từ bỏ mọi yêu sách đối với lãnh thổ Tây Ban Nha cho chính mình và tất cả con cháu của bà. Tuy nhiên, Mazarin và Lionne đã đưa ra điều kiện từ bỏ là phải trả đầy đủ của hồi môn của Tây Ban Nha là 500.000 écu.[46] Của hồi môn không bao giờ được trả và sau đó đã đóng một vai trò trong việc thuyết phục người em họ đầu tiên của mình là Charles II của Tây Ban Nha để lại đế chế của mình cho Philip, Công tước xứ Anjou (sau này là Philip V của Tây Ban Nha), cháu trai của Louis XIV và Maria Theresa.
Chiến tranh Phân quyền không tập trung vào việc trả của hồi môn; thay vào đó, việc thiếu thanh toán là lý do mà Louis XIV sử dụng làm cái cớ để vô hiệu hóa việc Maria Theresa từ bỏ yêu sách của bà, cho phép đất đai "chuyển giao" cho ông. Ở Brabant (vị trí của vùng đất đang tranh chấp), theo truyền thống, con cái của cuộc hôn nhân đầu tiên không bị thiệt thòi do cha mẹ tái hôn và vẫn được thừa kế tài sản. Vợ của Louis là con gái của Philip IV từ cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, trong khi vị vua mới của Tây Ban Nha, Charles II, là con trai của ông từ cuộc hôn nhân sau đó. Do đó, Brabant được cho là "chuyển giao" cho Maria Theresa, biện minh cho việc Pháp tấn công Hà Lan thuộc Tây Ban Nha.
Trong Chiến tranh Tám mươi năm với Tây Ban Nha, Pháp đã ủng hộ Cộng hòa Hà Lan như một phần của chính sách chung chống lại quyền lực của Habsburg. Johan de Witt, Chính khách đại thần từ năm 1653 đến năm 1672, coi đây là điều quan trọng đối với an ninh của Hà Lan và là đối trọng với những đối thủ đảng Orange trong nước của ông. Louis đã hỗ trợ trong Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai 1665-1667 nhưng đã lợi dụng cơ hội này để phát động Chiến tranh Phân quyền vào năm 1667. Chiến tranh này đã chiếm được Franche-Comté và phần lớn Hà Lan thuộc Tây Ban Nha; sự bành trướng của Pháp ở khu vực này là mối đe dọa trực tiếp đến lợi ích kinh tế của Hà Lan.[47]
Người Hà Lan đã mở các cuộc đàm phán với Charles II của Anh trên mặt trận ngoại giao chung chống lại Pháp, dẫn đến Liên minh Bộ ba, giữa Anh, Hà Lan và Thụy Điển. Mối đe dọa về sự leo thang và một hiệp ước bí mật để phân chia các thuộc địa của Tây Ban Nha với Hoàng đế Leopold, một bên yêu sách lớn khác đối với ngai vàng của Tây Ban Nha, đã khiến Louis từ bỏ nhiều thành quả của mình trong Hiệp ước Aix-la-Chapelle năm 1668.[48]
Louis ít tin tưởng vào thỏa thuận của mình với Leopold và vì giờ đây rõ ràng là mục tiêu của Pháp và Hà Lan đang xung đột trực tiếp, ông quyết định trước tiên đánh bại Cộng hòa Hoà Lan, sau đó chiếm lấy Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Điều này đòi hỏi phải phá vỡ Liên minh Bộ ba; ông trả tiền cho Thụy Điển để giữ thái độ trung lập và ký Hiệp ước Dover bí mật năm 1670 với Charles, một liên minh Anh-Pháp chống lại Cộng hòa Hà Lan. Vào tháng 5 năm 1672, Pháp xâm lược Cộng hòa, được Münster và Tuyển hầu quốc Cologne ủng hộ.[49]
Tiến quân nhanh chóng của Pháp dẫn đến một cuộc đảo chính lật đổ De Witt và đưa William III lên nắm quyền. Leopold coi sự bành trướng của Pháp vào vùng Rhineland là mối đe dọa ngày càng tăng, đặc biệt là sau khi họ chiếm được Công quốc chiến lược Lorraine vào năm 1670. Viễn cảnh về thất bại của Hà Lan đã khiến Leopold liên minh với Brandenburg-Phổ vào ngày 23 tháng 6, sau đó là một liên minh khác với Cộng hòa vào ngày 25.[50] Mặc dù Brandenburg buộc phải rút khỏi chiến tranh theo Hiệp ước Vossem tháng 6 năm 1673, nhưng vào tháng 8, một liên minh chống Pháp đã được thành lập bởi Hà Lan, Tây Ban Nha, Hoàng đế Leopold và Công tước xứ Lorraine.[51]
Liên minh của Pháp rất không được lòng dân Anh, và càng không được lòng dân hơn sau những trận chiến đáng thất vọng chống lại hạm đội của Michiel de Ruyter. Charles II của Anh đã ký kết hòa bình với Hà Lan theo Hiệp ước Westminster tháng 2 năm 1674. Tuy nhiên, quân đội Pháp nắm giữ những lợi thế đáng kể so với đối thủ của họ; một bộ chỉ huy không bị chia cắt, các tướng lĩnh tài năng như Turenne, Condé và Luxembourg và hậu cần vượt trội hơn nhiều. Các cải cách do Louvois, Bộ trưởng Chiến tranh, đưa ra đã giúp duy trì các đội quân dã chiến lớn có thể huy động nhanh hơn nhiều, cho phép họ tiến hành các cuộc tấn công vào đầu mùa xuân trước khi đối thủ của họ sẵn sàng.[52]
Tuy nhiên, người Pháp buộc phải rút lui khỏi hầu hết Cộng hòa Hà Lan, điều này khiến Louis vô cùng sốc; ông đã rút lui về St Germain trong một thời gian, nơi không ai, ngoại trừ một vài người thân cận, được phép làm phiền ông.[53] Tuy nhiên, lợi thế quân sự của Pháp đã cho phép họ giữ vững lập trường của mình ở Alsace và Hà Lan thuộc Tây Ban Nha trong khi chiếm lại Franche-Comté. Đến năm 1678, sự kiệt quệ của cả hai bên đã dẫn đến Hiệp ước Nijmegen, về cơ bản đã được giải quyết có lợi cho Pháp và cho phép Louis can thiệp vào Chiến tranh Scanian. Bất chấp thất bại về mặt quân sự, đồng minh của ông là Thụy Điển đã giành lại được phần lớn những gì đã mất theo các hiệp ước Saint-Germain-en-Laye, Fontainebleau và Lund năm 1679 áp đặt lên Đan Mạch-Na Uy và Brandenburg.[54] Tuy nhiên, hai mục tiêu chính của Louis, phá hủy Cộng hòa Hà Lan và chinh phục Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, đã thất bại.[55]
Louis đang ở đỉnh cao quyền lực, nhưng phải trả giá bằng việc đoàn kết những người chống đối; điều này gia tăng khi ông tiếp tục bành trướng. Năm 1679, ông sa thải bộ trưởng ngoại giao Simon Arnauld, hầu tước Pomponne, vì ông bị coi là đã thỏa hiệp quá nhiều với các đồng minh. Louis duy trì sức mạnh của quân đội, nhưng trong loạt yêu sách lãnh thổ tiếp theo của mình, ông tránh sử dụng vũ lực một mình. Thay vào đó, ông kết hợp nó với các lý do hợp pháp trong nỗ lực mở rộng ranh giới của vương quốc. Các hiệp ước đương thời được diễn đạt một cách mơ hồ. Louis thành lập Phòng đoàn tụ để xác định phạm vi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo các hiệp ước đó.
Các thành phố và vùng lãnh thổ, như Luxembourg và Casale, được đánh giá cao vì vị trí chiến lược của chúng trên biên giới và khả năng tiếp cận các tuyến đường thủy quan trọng. Louis cũng tìm kiếm Strasbourg, một cửa khẩu chiến lược quan trọng ở bờ trái sông Rhine và trước đó là Thành phố Đế quốc Tự do của Đế chế La Mã Thần thánh, sáp nhập thành phố này và các vùng lãnh thổ khác vào năm 1681. Mặc dù là một phần của Alsace, Strasbourg không phải là một phần của Alsace do Habsburg cai trị và do đó không được nhượng cho Pháp trong Hòa ước Westphalia.
Sau những lần sáp nhập này, Tây Ban Nha tuyên chiến, dẫn đến Chiến tranh Reunion. Tuy nhiên, người Tây Ban Nha đã nhanh chóng bị đánh bại vì Hoàng đế (bị phân tâm bởi Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ) đã bỏ rơi họ, và người Hà Lan chỉ hỗ trợ họ ở mức tối thiểu. Theo Hiệp định đình chiến Ratisbon, năm 1684, Tây Ban Nha buộc phải chấp nhận sự chiếm đóng của Pháp đối với hầu hết các vùng lãnh thổ đã chinh phục trong 20 năm.[56]
Chính sách của Louis đối với Reunion có thể đã đưa nước Pháp lên tầm cao nhất về quy mô và sức mạnh trong suốt thời kỳ trị vì của ông, nhưng nó đã khiến nhiều nước châu Âu xa lánh. Dư luận tiêu cực này đã trở nên tồi tệ hơn do các hành động của Pháp ngoài khơi Bờ biển Barbary và tại Genoa. Đầu tiên, Louis đã cho pháo kích Algiers và Tripoli, hai thành trì của cướp biển Barbary, để giành được một hiệp ước có lợi và giải phóng nô lệ theo đạo Thiên chúa. Tiếp theo, vào năm 1684, một phái đoàn đã được phát động chống lại Genoa để trả đũa việc Genoa ủng hộ Tây Ban Nha trong các cuộc chiến trước đó. Mặc dù người Genoa đã khuất phục và Tổng trấn Genoa đã dẫn đầu một phái đoàn chính thức xin lỗi Versailles, nhưng nước Pháp đã nổi tiếng về sự tàn bạo và kiêu ngạo. Sự lo ngại của châu Âu trước sức mạnh ngày càng tăng của Pháp và nhận ra mức độ ảnh hưởng của các cuộc tấn công bằng dragonnades (được thảo luận bên dưới) đã khiến nhiều quốc gia từ bỏ liên minh với Pháp.[57] Theo đó, vào cuối những năm 1680, nước Pháp ngày càng trở nên cô lập ở châu Âu.
Thông tin thêm: Đế chế thực dân Pháp và chủ nghĩa phương Đông ở nước Pháp đầu thời hiện đại
Các thuộc địa của Pháp đã tăng lên ở Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á trong thời kỳ trị vì của Louis, và các nhà thám hiểm người Pháp đã có những khám phá quan trọng ở Bắc Mỹ. Năm 1673, Louis Jolliet và Jacques Marquette đã khám phá ra Sông Mississippi. Năm 1682, René-Robert Cavelier, Sieur de La Salle, đã đi theo Sông Mississippi đến Vịnh Mexico và tuyên bố lưu vực Mississippi rộng lớn theo tên của Louis, gọi nó là Louisiane. Các trạm giao dịch của Pháp cũng được thành lập ở Ấn Độ, tại Chandernagore và Pondicherry, và ở Ấn Độ Dương tại Île Bourbon. Trên khắp các khu vực này, Louis và Colbert đã bắt tay vào một chương trình kiến trúc và quy hoạch đô thị rộng lớn nhằm phản ánh phong cách của Versailles và Paris và 'vinh quang' của vương quốc.[58]
Trong khi đó, quan hệ ngoại giao đã được khởi xướng với các quốc gia xa xôi. Năm 1669, Suleiman Aga dẫn đầu một phái đoàn đại sứ Ottoman để khôi phục lại liên minh Pháp-Ottoman cũ.[59] Sau đó, vào năm 1682, sau khi tiếp đón phái đoàn đại sứ Morocco của Mohammed Tenim tại Pháp, Moulay Ismail, Quốc vương Morocco, đã cho phép Pháp thành lập các cơ sở thương mại và lãnh sự tại quốc gia của mình.[60] Năm 1699, Louis một lần nữa tiếp đón một đại sứ Morocco, Abdallah bin Aisha, và năm 1715, ông tiếp đón một phái đoàn đại sứ quán Ba Tư do Mohammad Reza Beg dẫn đầu.
Từ xa hơn, Vương quốc Xiêm đã phái một phái đoàn đại sứ vào năm 1684, được người Pháp đáp lại một cách tuyệt vời vào năm sau dưới thời Alexandre, Hiệp sĩ de Chaumont. Đến lượt mình, một phái đoàn Xiêm khác dưới quyền Kosa Pan đã được tiếp đón nồng nhiệt tại Versailles vào năm 1686. Sau đó, Louis đã cử một phái đoàn khác vào năm 1687, dưới quyền Simon de la Loubère, và ảnh hưởng của Pháp ngày càng tăng tại triều đình Xiêm, nơi đã cấp cho Pháp một căn cứ hải quân là Mergui. Tuy nhiên, cái chết của Narai, Vua Ayutthaya, vụ hành quyết bộ trưởng thân Pháp Constantine Phaulkon và cuộc bao vây Bangkok năm 1688 đã chấm dứt kỷ nguyên ảnh hưởng của Pháp này.[61]
Pháp cũng đã cố gắng tham gia tích cực vào các phái bộ của Dòng Tên đến Trung Quốc. Để phá vỡ sự thống trị của Bồ Đào Nha ở đó, Louis đã cử các nhà truyền giáo Dòng Tên đến triều đình của Hoàng đế Khang Hy vào năm 1685: Jean de Fontaney, Joachim Bouvet, Jean-François Gerbillon, Louis Le Comte và Claude de Visdelou.[62] Louis cũng đã tiếp một tu sĩ Dòng Tên người Trung Quốc, Michael Thẩm Phúc Tông, tại Versailles vào năm 1684.[63] Hơn nữa, thủ thư và biên dịch viên của Louis là Hoàng Gia Lược là người Trung Quốc.[64][65]
Đến đầu những năm 1680, Louis đã tăng cường đáng kể ảnh hưởng của Pháp trên thế giới. Trong nước, ông đã thành công trong việc gia tăng ảnh hưởng của vương quyền và thẩm quyền của mình đối với nhà thờ và tầng lớp quý tộc, qua đó củng cố chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp.
Louis ban đầu ủng hộ chủ nghĩa Gallican truyền thống, hạn chế thẩm quyền của giáo hoàng ở Pháp và triệu tập một Hội đồng giáo sĩ Pháp vào tháng 11 năm 1681. Trước khi giải tán tám tháng sau, Hội đồng đã chấp nhận Tuyên bố của Giáo sĩ Pháp, tăng thẩm quyền của hoàng gia bằng cách làm giảm quyền lực của giáo hoàng. Nếu không có sự chấp thuận của hoàng gia, các giám mục không thể rời khỏi Pháp và không thể kháng cáo lên giáo hoàng. Ngoài ra, các quan chức chính phủ không thể bị khai trừ vì những hành vi phạm tội khi thực hiện nhiệm vụ của họ. Mặc dù nhà vua không thể ban hành luật tôn giáo, nhưng mọi quy định của giáo hoàng mà không có sự chấp thuận của hoàng gia đều không có hiệu lực ở Pháp. Không có gì ngạc nhiên khi Giáo hoàng bác bỏ Tuyên bố.[66]
Bằng cách đưa các nhà quý tộc đến triều đình của mình tại Versailles, Louis đã đạt được quyền kiểm soát ngày càng tăng đối với tầng lớp quý tộc Pháp. Theo sử gia Philip Mansel, nhà vua đã biến cung điện thành:
một sự kết hợp không thể cưỡng lại của thị trường hôn nhân, công ty môi giới việc làm và thủ đô giải trí của giới quý tộc châu Âu, tự hào có nhà hát, opera, âm nhạc, cờ bạc, tình dục và (quan trọng nhất) săn bắn tốt nhất.[67]
Các căn hộ được xây dựng để chứa những người sẵn sàng trả tiền cho nhà vua.[68] Tuy nhiên, lương hưu và các đặc quyền cần thiết để sống theo phong cách phù hợp với cấp bậc của họ chỉ có thể có được bằng cách liên tục phục vụ Louis.[69] Vì mục đích này, một nghi lễ cung đình phức tạp đã được tạo ra trong đó nhà vua trở thành tâm điểm chú ý và được công chúng quan sát suốt cả ngày. Với trí nhớ tuyệt vời của mình, Louis sau đó có thể biết ai đã phục vụ ông tại triều đình và ai vắng mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân phối các ưu đãi và chức vụ sau đó. Một công cụ khác mà Louis sử dụng để kiểm soát giới quý tộc của mình là kiểm duyệt, thường liên quan đến việc mở thư để phân biệt ý kiến của tác giả về chính phủ và nhà vua. Hơn nữa, bằng cách giải trí, gây ấn tượng và thuần hóa họ bằng sự xa hoa xa hoa và những trò tiêu khiển khác, Louis không chỉ vun đắp dư luận về mình mà còn đảm bảo rằng giới quý tộc vẫn nằm trong tầm ngắm của ông.
Sự xa hoa của Louis tại Versailles đã vượt xa phạm vi các nghi lễ cung đình cầu kỳ. Ông đã nhận một con voi châu Phi làm quà tặng từ vua Bồ Đào Nha.[70] Ông khuyến khích các nhà quý tộc hàng đầu sống tại Versailles. Điều này, cùng với lệnh cấm quân đội tư nhân, đã ngăn cản họ dành thời gian ở điền trang của riêng mình và ở các căn cứ quyền lực khu vực của họ, nơi mà họ thường tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ và âm mưu chống lại chính quyền hoàng gia. Do đó, Louis đã ép buộc và dụ dỗ giới quý tộc quân sự cũ (giới "quý tộc của thanh kiếm") trở thành cận thần nghi lễ của mình, làm suy yếu thêm quyền lực của họ. Thay vào đó, ông đã nuôi dưỡng những người dân thường hoặc giới quý tộc quan liêu mới được phong làm quý tộc (giới "quý tộc của chiếc áo choàng"). Ông phán đoán rằng quyền lực hoàng gia phát triển mạnh mẽ hơn bằng cách bổ nhiệm những người đàn ông này vào các vị trí hành chính và điều hành cấp cao vì họ có thể dễ dàng bị sa thải hơn so với những quý tộc có dòng dõi lâu đời và có ảnh hưởng cố hữu. Người ta tin rằng các chính sách của Louis bắt nguồn từ những trải nghiệm của ông trong thời kỳ Fronde, khi những người có dòng dõi cao quý sẵn sàng tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại nhà vua của họ, người thực sự là họ hàng của một số người. Chiến thắng này trước giới quý tộc có thể đã đảm bảo chấm dứt các cuộc nội chiến lớn ở Pháp cho đến Cách mạng Pháp khoảng một thế kỷ sau đó.
Dưới thời Louis, Pháp là cường quốc hàng đầu châu Âu và hầu hết các cuộc chiến đều xoay quanh tính hiếu chiến của nước này. Không có quốc gia châu Âu nào vượt qua Pháp về dân số và không ai có thể sánh được với sự giàu có, vị trí trung tâm và quân đội chuyên nghiệp rất mạnh của Pháp. Pháp đã phần lớn tránh được sự tàn phá của Chiến tranh Ba mươi năm. Điểm yếu của Pháp bao gồm hệ thống tài chính kém hiệu quả, khó có thể chi trả cho các cuộc phiêu lưu quân sự của mình và xu hướng của hầu hết các cường quốc khác liên kết chống lại Pháp.
Trong thời kỳ trị vì của Louis, Pháp đã tiến hành ba cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh Pháp-Hà Lan, Chiến tranh Chín năm và Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Ngoài ra còn có hai cuộc xung đột nhỏ hơn: Chiến tranh Phân quyền và Chiến tranh Reunion.[71] Các cuộc chiến tranh này rất tốn kém nhưng đã định hình chính sách đối ngoại của Louis XIV và tính cách của ông đã định hình cách tiếp cận của ông. Được thúc đẩy "bởi sự kết hợp giữa thương mại, trả thù và sự thịnh nộ", Louis cảm thấy rằng chiến tranh là cách lý tưởng để nâng cao vinh quang của mình. Trong thời bình, ông tập trung vào việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tiếp theo. Ông dạy các nhà ngoại giao của mình rằng nhiệm vụ của họ là tạo ra lợi thế chiến thuật và chiến lược cho quân đội Pháp.[72] Đến năm 1695, Pháp vẫn giữ được phần lớn quyền thống trị của mình nhưng đã mất quyền kiểm soát vùng biển vào tay Anh và Hà Lan, và hầu hết các quốc gia, cả Tin lành và Công giáo, đều liên minh chống lại Pháp. Sébastien Le Prestre de Vauban, nhà chiến lược quân sự hàng đầu của Pháp, đã cảnh báo Louis vào năm 1689 rằng một "Liên minh" thù địch sẽ quá mạnh trên biển. Ông khuyến nghị Pháp nên phản công bằng cách cấp phép cho các tàu buôn của Pháp để cướp biển và bắt giữ các tàu buôn của đối phương trong khi tránh xa hải quân của mình:
Pháp có kẻ thù đã tuyên bố là Đức và tất cả các quốc gia mà nước này sáp nhập; Tây Ban Nha với tất cả các quốc gia phụ thuộc ở Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ; Công tước xứ Savoy [ở Ý], Anh, Scotland, Ireland và tất cả các thuộc địa của họ ở Đông và Tây Ấn; và Hà Lan với tất cả các thuộc địa của mình ở bốn góc thế giới, nơi họ có các cơ sở lớn. Pháp có... những kẻ thù không công khai, thù địch gián tiếp, thù địch và ghen tị với sự vĩ đại của mình, Đan Mạch, Thụy Điển, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Venice, Genoa và một phần của Liên bang Thụy Sĩ, tất cả các quốc gia này đều bí mật giúp đỡ kẻ thù của Pháp bằng cách thuê quân đội, cho họ vay tiền và bảo vệ và che đậy hoạt động thương mại của họ.[73]
Vauban bi quan về những người được gọi là bạn bè và đồng minh của Pháp:
Đối với những người bạn thờ ơ, vô dụng hoặc bất lực, Pháp có Giáo hoàng, người thờ ơ; Vua Anh [James II] bị trục xuất khỏi đất nước; Đại công tước xứ Tuscany; Công tước xứ Mantua, Modena và Parma [tất cả đều ở Ý]; và phe phái khác của Thụy Sĩ. Một số người trong số họ chìm đắm trong sự mềm yếu đến từ nhiều năm hòa bình, những người khác thì lạnh lùng trong tình cảm của họ.... Người Anh và người Hà Lan là những trụ cột chính của Liên minh; họ ủng hộ nó bằng cách gây chiến với chúng ta cùng với các cường quốc khác, và họ duy trì nó bằng số tiền mà họ trả hàng năm cho... Đồng minh.... Do đó, chúng ta phải quay lại với cướp biển như một phương pháp tiến hành chiến tranh khả thi nhất, đơn giản nhất, rẻ nhất và an toàn nhất, và sẽ tốn ít chi phí nhất cho nhà nước, đặc biệt là vì Nhà vua sẽ không phải chịu bất kỳ tổn thất nào, người hầu như không phải mạo hiểm gì.... Nó sẽ làm giàu cho đất nước, đào tạo nhiều sĩ quan giỏi cho Nhà vua và trong thời gian ngắn buộc kẻ thù của ông phải cầu hòa.[74]
Bài viết chính: Sắc lệnh Fontainebleau
Louis quyết định đàn áp những người Tin lành và hủy bỏ Sắc lệnh Nantes năm 1598, sắc lệnh trao cho những người Huguenot quyền tự do chính trị và tôn giáo. Ông coi sự tồn tại dai dẳng của đạo Tin lành là lời nhắc nhở đáng xấu hổ về sự bất lực của hoàng gia. Xét cho cùng, Sắc lệnh là sự nhượng bộ thực dụng của ông nội ông là Henry IV nhằm chấm dứt Chiến tranh tôn giáo lâu đời của Pháp. Một yếu tố khác trong suy nghĩ của Louis là nguyên tắc thịnh hành của châu Âu đương thời nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội, cuius regio, eius religio ("vương quốc của ai, tôn giáo của người đó"), ý tưởng rằng tôn giáo của người cai trị phải là tôn giáo của vương quốc (như đã được xác nhận ban đầu ở Trung Âu trong Hòa ước Augsburg năm 1555).[75]
Đáp lại các kiến nghị, ban đầu Louis loại những người Tin lành khỏi chức vụ, hạn chế các cuộc họp của các giáo đoàn, đóng cửa các nhà thờ bên ngoài các khu vực được Sắc lệnh quy định, cấm những người rao giảng Tin lành ngoài trời và cấm di cư Tin lành trong nước. Ông cũng không cho phép các cuộc hôn nhân giữa người Tin lành và Công giáo mà bên thứ ba phản đối, khuyến khích các sứ mệnh cho người Tin lành và khen thưởng những người cải đạo sang Công giáo.[76] Sự phân biệt đối xử này không gặp phải nhiều sự phản đối của người Tin lành và một sự cải đạo ổn định của người Tin lành đã diễn ra, đặc biệt là trong giới tinh hoa quý tộc.
Năm 1681, Louis đã tăng cường đàn áp người Tin lành một cách đáng kể. Nguyên tắc cuius regio, eius religio nói chung cũng có nghĩa là những đối tượng từ chối cải đạo có thể di cư, nhưng Louis đã cấm di cư và thực sự nhấn mạnh rằng tất cả người Tin lành phải cải đạo. Thứ hai, theo đề xuất của René de Marillac và Hầu tước Louvois, ông bắt đầu cho lính kỵ binh ở trong nhà của người Tin lành. Mặc dù điều này nằm trong quyền hợp pháp của ông, nhưng các cuộc tấn công bằng vũ khí đã gây ra gánh nặng tài chính nghiêm trọng cho người Tin lành và sự lạm dụng tàn bạo. Từ 300.000 đến 400.000 người Huguenot đã cải đạo, vì điều này đòi hỏi phần thưởng tài chính và được miễn khỏi các cuộc tấn công bằng Dragonnades.[77]
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1685, Louis ban hành Sắc lệnh Fontainebleau, trong đó nêu lý do thừa đặc quyền dành cho người Tin lành do họ ít được hưởng sau những cuộc cải đạo rộng rãi. Sắc lệnh Fontainebleau đã bãi bỏ Sắc lệnh Nantes và bãi bỏ mọi đặc quyền phát sinh từ đó. Theo sắc lệnh của mình, Louis không còn chấp nhận sự tồn tại của các nhóm Tin lành, mục sư hoặc nhà thờ ở Pháp. Không được xây dựng thêm nhà thờ nào nữa và những nhà thờ đã tồn tại sẽ bị phá bỏ. Các mục sư có thể lựa chọn sống lưu vong hoặc thế tục. Những người Tin lành đã chống lại việc cải đạo giờ đây sẽ bị rửa tội cưỡng bức vào nhà thờ đã thành lập.[78]
Các nhà sử học đã tranh luận về lý do Louis ban hành Sắc lệnh Fontainebleau. Ông có thể đang tìm cách xoa dịu Giáo hoàng Innocent XI, người có mối quan hệ căng thẳng và sự hỗ trợ của ông là cần thiết để quyết định kết quả của cuộc khủng hoảng kế vị tại Tuyển hầu quốc Cologne. Ông cũng có thể đã hành động để qua mặt Hoàng đế Leopold I và giành lại uy tín quốc tế sau khi người này đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ mà không cần sự giúp đỡ của Louis. Nếu không, ông có thể chỉ muốn chấm dứt những chia rẽ còn lại trong xã hội Pháp có từ thời Chiến tranh tôn giáo bằng cách thực hiện lời thề đăng quang của mình là xóa bỏ tà giáo.[79][80]
Nhiều nhà sử học đã lên án Sắc lệnh Fontainebleau là gây hại nghiêm trọng cho nước Pháp.[81] Để ủng hộ, họ trích dẫn cuộc di cư của khoảng 200.000 người Huguenot có trình độ cao (khoảng một phần tư dân số theo đạo Tin lành, hoặc 1% dân số Pháp) đã bất chấp các sắc lệnh của hoàng gia và chạy trốn khỏi Pháp đến các quốc gia theo đạo Tin lành khác nhau, làm suy yếu nền kinh tế Pháp và làm giàu cho nền kinh tế của các quốc gia theo đạo Tin lành. Mặt khác, một số nhà sử học coi đây là một sự cường điệu. Họ lập luận rằng hầu hết các doanh nhân và nhà công nghiệp theo đạo Tin lành hàng đầu của Pháp đã cải sang Công giáo và vẫn ở lại.[82]
Điều chắc chắn là phản ứng đối với Sắc lệnh này là trái chiều. Ngay cả khi các nhà lãnh đạo Công giáo Pháp hân hoan, Giáo hoàng Innocent XI vẫn tranh luận với Louis về chủ nghĩa Gallican và chỉ trích việc sử dụng bạo lực. Những người theo đạo Tin lành trên khắp châu Âu kinh hoàng trước cách đối xử với những người cùng tôn giáo, nhưng hầu hết những người Công giáo ở Pháp đều hoan nghênh động thái này. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hình ảnh công khai của Louis ở hầu hết châu Âu, đặc biệt là ở các khu vực theo đạo Tin lành, đã bị giáng một đòn nặng nề.
Tuy nhiên, cuối cùng, mặc dù có những căng thẳng mới với người Camisard ở miền nam-trung nước Pháp vào cuối triều đại của mình, Louis có thể đã giúp đảm bảo rằng người kế nhiệm ông sẽ ít gặp phải những trường hợp xáo trộn dựa trên tôn giáo hơn đã từng gây ra tai họa cho tổ tiên của ông. Xã hội Pháp sẽ thay đổi đủ nhiều vào thời hậu duệ của ông, Louis XVI, để chào đón sự khoan dung dưới hình thức Sắc lệnh Versailles năm 1787, còn được gọi là Sắc lệnh khoan dung. Sắc lệnh này đã khôi phục lại quyền công dân và quyền tự do thờ cúng công khai cho những người không theo Công giáo.[83] Với sự ra đời của Cách mạng Pháp năm 1789, những người theo đạo Tin lành được trao quyền bình đẳng với những người theo Công giáo La Mã.
Bài viết chính: Chiến tranh Chín năm
Chiến tranh Chín năm, kéo dài từ năm 1688 đến năm 1697, đã khởi đầu cho một giai đoạn suy thoái về vận mệnh chính trị và ngoại giao của Louis. Nó phát sinh từ hai sự kiện ở vùng Rhineland. Đầu tiên, vào năm 1685, Tuyển hầu tước Palatine Charles II qua đời. Tất cả những người thân trong gia đình ông chỉ còn lại em dâu của Louis, Elizabeth Charlotte. Luật pháp Đức rõ ràng cấm bà kế thừa đất đai và phẩm giá bầu cử của anh trai mình, nhưng không đủ rõ ràng để các lập luận có lợi cho Elizabeth Charlotte có cơ hội thành công. Ngược lại, công chúa rõ ràng có quyền được chia tài sản cá nhân của gia đình. Louis thúc đẩy các yêu sách của bà về đất đai và tài sản, hy vọng rằng ít nhất là những thứ sau sẽ được trao cho bà.[84] Sau đó, vào năm 1688, Maximilian Henry xứ Bavaria, Tổng giám mục Cologne, một đồng minh của Pháp, đã qua đời. Tổng giáo phận theo truyền thống do Nhà Wittelsbach xứ Bavaria nắm giữ, nhưng người Bavaria yêu cầu thay thế Maximilian Henry, Hoàng tử Joseph Clemens xứ Bavaria, khi đó mới chỉ 17 tuổi và thậm chí còn chưa được thụ phong. Thay vào đó, Louis tìm cách đưa ứng cử viên của riêng mình, Wilhelm Egon von Fürstenberg, lên nắm quyền để đảm bảo rằng nhà nước Rhenish quan trọng vẫn là đồng minh.[85]
Xét đến các chính sách đối ngoại và đối nội của ông vào đầu những năm 1680, được coi là hung hăng, các hành động của Louis, được thúc đẩy bởi các cuộc khủng hoảng kế vị vào cuối những năm 1680, đã gây ra mối quan ngại và báo động ở nhiều nơi tại châu Âu. Điều này dẫn đến việc thành lập Liên minh Augsburg năm 1686 của Hoàng đế La Mã Thần thánh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Saxony và Bavaria. Ý định được nêu của họ là đưa Pháp trở lại ít nhất là các biên giới đã thỏa thuận trong Hiệp ước Nijmegen.[86] Việc Hoàng đế Leopold I liên tục từ chối chuyển Hiệp định đình chiến Ratisbon thành một hiệp ước vĩnh viễn đã làm dấy lên nỗi sợ của Louis rằng Hoàng đế sẽ quay sang Pháp và tấn công Reunion sau khi giải quyết xong công việc của mình ở Balkan.[87]
Một sự kiện khác mà Louis thấy đe dọa là Cách mạng Vinh quang của Anh năm 1688. Mặc dù Vua James II theo Công giáo, hai cô con gái theo Anh giáo của ông, Mary và Anne, đã đảm bảo cho người dân Anh một sự kế vị theo đạo Tin lành. Nhưng khi con trai của James II là James Francis Edward Stuart chào đời, ông đã được ưu tiên kế vị hơn các chị gái của mình. Điều này dường như báo hiệu một kỷ nguyên của các quốc vương theo Công giáo ở Anh. Các lãnh chúa theo đạo Tin lành đã kêu gọi Hoàng tử Hà Lan William III xứ Orange, cháu trai của Charles I của Anh, đến giúp đỡ họ. Ông đã đi thuyền đến Anh cùng với quân đội mặc dù Louis đã cảnh báo rằng Pháp sẽ coi đó là một sự khiêu khích. Chứng kiến nhiều cuộc đào ngũ và đào tẩu, ngay cả trong số những người thân cận nhất, James II đã chạy trốn khỏi Anh. Quốc hội tuyên bố ngai vàng bị bỏ trống và trao nó cho con gái của James là Mary II cùng con rể và cháu trai William. Chống Pháp quyết liệt, William (bây giờ là William III của Anh) đã đẩy các vương quốc mới của mình vào chiến tranh, do đó biến Liên minh Augsburg thành Liên minh lớn. Trước khi điều này xảy ra, Louis mong đợi cuộc thám hiểm của William đến Anh sẽ hấp thụ năng lượng của ông và của các đồng minh của ông, vì vậy ông đã điều động quân đội đến Rhineland sau khi hết hạn tối hậu thư của mình cho các hoàng tử Đức yêu cầu xác nhận Hiệp định đình chiến Ratisbon và chấp nhận các yêu cầu của ông về cuộc khủng hoảng kế vị. Cuộc điều động quân sự này cũng nhằm mục đích bảo vệ các tỉnh phía đông của ông khỏi cuộc xâm lược của Đế quốc bằng cách tước đoạt nguồn cung cấp lương thực của quân đội đối phương, do đó giải thích chính sách tiêu thổ phủ đầu được theo đuổi ở phần lớn phía tây nam nước Đức ("Sự tàn phá của Palatinate").[88]
Quân đội Pháp nói chung đã giành chiến thắng trong suốt cuộc chiến vì các cam kết của Đế quốc ở Balkan, ưu thế về hậu cần của Pháp và chất lượng của các vị tướng Pháp như học trò nổi tiếng của Condé, François Henri de Montmorency-Bouteville, duc de Luxembourg.[89] Ông đã giành chiến thắng tại các trận Fleurus năm 1690, Steenkerque năm 1692 và Landen năm 1693, mặc dù các trận chiến này tỏ ra không có nhiều hậu quả về mặt chiến lược,[90][91] chủ yếu là do bản chất của chiến tranh vào cuối thế kỷ 17.[92]
Mặc dù nỗ lực khôi phục James II đã thất bại tại Trận Boyne năm 1690, Pháp đã tích lũy được một loạt chiến thắng từ Flanders ở phía bắc, Đức ở phía đông, và Ý và Tây Ban Nha ở phía nam, đến biển cả và các thuộc địa. Louis đích thân giám sát việc chiếm giữ Mons năm 1691 và Namur năm 1692. Luxembourg đã cung cấp cho Pháp tuyến phòng thủ Sambre bằng cách chiếm Charleroi năm 1693. Pháp cũng đã tràn ngập hầu hết Công quốc Savoy sau các trận chiến Marsaglia và Staffarde năm 1693. Trong khi tình trạng bế tắc trên biển xảy ra sau chiến thắng của Pháp tại Trận Beachy Head năm 1690 và chiến thắng của Đồng minh tại Barfleur-La Hougue năm 1692, Trận Torroella năm 1694 đã khiến Catalonia phải chịu cuộc xâm lược của Pháp, đỉnh điểm là việc chiếm giữ Barcelona. Người Hà Lan chiếm được Pondichéry vào năm 1693, nhưng một cuộc đột kích của Pháp vào cảng kho báu Cartagena, Tây Ban Nha năm 1697 đã mang lại khối tài sản trị giá 10.000.000 livre.
Vào tháng 7 năm 1695, thành phố Namur, bị người Pháp chiếm đóng trong ba năm, đã bị quân đội đồng minh do William III chỉ huy bao vây. Louis XIV đã ra lệnh phá hủy bất ngờ một thành phố của người Flemish để đánh lạc hướng sự chú ý của những đội quân này. Điều này dẫn đến cuộc bắn phá Brussels, trong đó hơn 4.000 tòa nhà đã bị phá hủy, bao gồm toàn bộ trung tâm thành phố. Chiến lược này đã thất bại, vì Namur thất thủ ba tuần sau đó, nhưng đã làm tổn hại đến danh tiếng của Louis XIV: một thế kỷ sau, Napoleon coi cuộc bắn phá là "man rợ và vô ích".[93]
Thụy Điển đã đề xuất hòa bình vào năm 1690. Đến năm 1692, cả hai bên rõ ràng đều muốn hòa bình và các cuộc đàm phán song phương bí mật đã bắt đầu, nhưng không có kết quả.[94] Louis đã cố gắng phá vỡ liên minh chống lại mình bằng cách giải quyết từng đối thủ riêng lẻ nhưng không đạt được mục tiêu cho đến năm 1696 khi người Savoy đồng ý với Hiệp ước Turin và đổi phe. Sau đó, các thành viên của Liên minh Augsburg đã vội vã đến bàn đàm phán hòa bình và các cuộc đàm phán về một nền hòa bình chung bắt đầu nghiêm túc, lên đến đỉnh điểm là Hiệp ước Ryswick năm 1697.[95]
Bài viết chính: Hiệp ước Ryswick
Hiệp ước Ryswick đã chấm dứt Chiến tranh Liên minh Augsburg và giải tán Liên minh lớn. Bằng cách thao túng sự ganh đua và nghi ngờ của họ, Louis đã chia rẽ kẻ thù của mình và phá vỡ quyền lực của họ.
Hiệp ước mang lại nhiều lợi ích cho nước Pháp. Louis đảm bảo chủ quyền vĩnh viễn của Pháp đối với toàn bộ Alsace, bao gồm cả Strasbourg, và thiết lập sông Rhine là biên giới Pháp-Đức (cho đến ngày nay). Pondichéry và Acadia đã được trả lại cho Pháp và quyền sở hữu thực tế của Louis đối với Saint-Domingue được công nhận là hợp pháp. Tuy nhiên, ông đã trả lại Catalonia và hầu hết các đảo Reunions.
Ưu thế quân sự của Pháp có thể đã cho phép ông thúc đẩy các điều khoản có lợi hơn. Do đó, sự hào phóng của ông đối với Tây Ban Nha liên quan đến Catalonia đã được coi là một sự nhượng bộ để nuôi dưỡng tình cảm thân Pháp và cuối cùng có thể đã khiến Vua Charles II phong cháu trai của Louis là Philip, Công tước xứ Anjou, làm người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha.[96] Để đổi lấy khoản bồi thường tài chính, Pháp đã từ bỏ quyền lợi của mình ở Tuyển hầu quốc Cologne và Palatinate. Lorraine, nơi đã bị Pháp chiếm đóng từ năm 1670, đã được trả lại cho Công tước hợp pháp Leopold, mặc dù có quyền đi qua đối với quân đội Pháp. William và Mary được công nhận là những người đồng cai trị Quần đảo Anh, và Louis đã rút lại sự ủng hộ đối với James II. Người Hà Lan được trao quyền đồn trú tại các pháo đài ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, đóng vai trò như một rào cản bảo vệ chống lại sự xâm lược có thể xảy ra của Pháp. Mặc dù về một số khía cạnh, Hiệp ước Ryswick có thể là một thất bại ngoại giao đối với Louis vì ông đã không đưa những người cai trị chư hầu vào quyền kiểm soát Palatinate hoặc Tuyển hầu quốc Cologne, nhưng ông đã hoàn thành nhiều mục tiêu được nêu trong tối hậu thư năm 1688 của mình.[97] Trong mọi trường hợp, hòa bình năm 1697 là điều Louis mong muốn, vì nước Pháp đã kiệt quệ vì chi phí chiến tranh.
Bài viết chính: Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha
Vào thời điểm Hiệp ước Ryswick được ký kết, quyền kế vị của Tây Ban Nha đã trở thành mối quan tâm của các nhà lãnh đạo châu Âu trong hơn bốn mươi năm. Vua Charles II cai trị một đế chế rộng lớn bao gồm Tây Ban Nha, Naples, Sicily, Milan, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và nhiều thuộc địa của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, ông không có con và do đó không có người thừa kế trực tiếp.
Những người yêu cầu chính đối với ngai vàng của Tây Ban Nha thuộc về các gia đình cầm quyền của Pháp và Áo. Yêu cầu của Pháp bắt nguồn từ mẹ của Louis XIV là Anne của Áo (chị gái của Philip IV của Tây Ban Nha) và vợ của ông là Maria Theresa (con gái lớn của Philip IV). Dựa trên luật về quyền thừa kế, Pháp có yêu cầu tốt hơn vì nó bắt nguồn từ những người con gái lớn nhất trong hai thế hệ. Tuy nhiên, việc họ từ bỏ quyền kế vị đã làm phức tạp vấn đề. Tuy nhiên, trong trường hợp của Maria Theresa, việc từ bỏ được coi là vô hiệu do Tây Ban Nha vi phạm hợp đồng hôn nhân của bà với Louis. Ngược lại, không có sự từ bỏ nào làm ảnh hưởng đến yêu cầu của con trai của Hoàng đế Leopold I là Charles, Đại công tước của Áo, là cháu trai của Maria Anna, con gái út của Philip III. Người Anh và người Hà Lan lo sợ rằng một vị vua Tây Ban Nha gốc Pháp hoặc Áo sẽ đe dọa đến sự cân bằng quyền lực và do đó đã ưu tiên Hoàng tử xứ Bavaria Joseph Ferdinand, cháu trai của Leopold I thông qua người vợ đầu tiên của ông là Margaret Theresa của Tây Ban Nha (con gái út của Philip IV).
Trong nỗ lực tránh chiến tranh, Louis đã ký Hiệp ước Hague với William III của Anh vào năm 1698. Thỏa thuận này chia các lãnh thổ Ý của Tây Ban Nha cho con trai của Louis là le Grand Dauphin và Đại Công tước Charles, phần còn lại của đế chế được trao cho Joseph Ferdinand. William III đã đồng ý cho phép các lãnh thổ mới của Dauphin trở thành một phần của Pháp khi người này kế vị ngai vàng của cha mình.[98] Tuy nhiên, những người ký kết đã không tham khảo ý kiến của người cai trị những vùng đất này, và Charles II đã phản đối mạnh mẽ việc chia cắt đế chế của mình. Năm 1699, ông đã xác nhận lại di chúc năm 1693 của mình, trong đó nêu tên Joseph Ferdinand là người kế vị duy nhất của ông.[99]
Sáu tháng sau, Joseph Ferdinand qua đời. Do đó, vào năm 1700, Louis và William III đã ký kết một thỏa thuận phân chia mới, Hiệp ước London. Hiệp ước này phân bổ Tây Ban Nha, các nước vùng đất thấp và các thuộc địa của Tây Ban Nha cho Đại công tước. Thái tử sẽ nhận được tất cả các vùng lãnh thổ Ý của Tây Ban Nha.[100] Charles II thừa nhận rằng đế chế của ông chỉ có thể không bị chia cắt bằng cách để lại toàn bộ cho một người Pháp hoặc một người Áo. Dưới áp lực của người vợ người Đức, Maria Anna xứ Neuburg, Charles II đã chỉ định Đại công tước Charles là người thừa kế duy nhất của mình.
Trên giường bệnh năm 1700, Charles II của Tây Ban Nha bất ngờ thay đổi di chúc. Sự thể hiện rõ ràng về ưu thế quân sự của Pháp trong nhiều thập kỷ trước thời điểm này, phe thân Pháp tại triều đình Tây Ban Nha và thậm chí cả Giáo hoàng Innocent XII đã thuyết phục ông rằng Pháp có nhiều khả năng bảo vệ nguyên vẹn đế chế của ông hơn. Do đó, ông đã trao toàn bộ đế chế cho con trai thứ hai của Dauphin là Philip, Công tước xứ Anjou, với điều kiện là nó vẫn không bị chia cắt. Anjou không nằm trong dòng dõi kế vị trực tiếp của Pháp, do đó việc ông lên ngôi sẽ không gây ra sự thống nhất Pháp-Tây Ban Nha. Nếu Anjou từ chối, ngai vàng sẽ được trao cho em trai ông là Charles, Công tước xứ Berry. Nếu Công tước xứ Berry từ chối, ngai vàng sẽ thuộc về Đại công tước Charles, sau đó là Nhà Savoy có họ hàng xa nếu Charles từ chối.[101]
Louis phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn. Ông có thể đồng ý phân chia các thuộc địa của Tây Ban Nha và tránh một cuộc chiến tranh chung, hoặc chấp nhận di chúc của Charles II và xa lánh phần lớn châu Âu. Ban đầu, ông có thể có xu hướng tuân thủ các hiệp ước phân chia, nhưng sự khăng khăng của Dauphin đã thuyết phục ông làm ngược lại.[102] Hơn nữa, bộ trưởng ngoại giao của Louis, Jean-Baptiste Colbert, hầu tước de Torcy, chỉ ra rằng chiến tranh với Hoàng đế gần như chắc chắn sẽ xảy ra cho dù Louis chấp nhận các hiệp ước phân chia hay di chúc của Charles II. Ông nhấn mạnh rằng, nếu xảy ra chiến tranh, William III khó có thể đứng về phía Pháp vì ông "đã ký một hiệp ước để tránh chiến tranh và không có ý định tham chiến để thực hiện hiệp ước". Thật vậy, trong trường hợp chiến tranh, có thể tốt hơn là đã kiểm soát được các vùng đất đang tranh chấp. Do đó, cuối cùng, Louis quyết định chấp nhận di chúc của Charles II. Philip, Công tước xứ Anjou, do đó trở thành Philip V, Vua của Tây Ban Nha.
Hầu hết các nhà cai trị châu Âu chấp nhận Philip làm vua, một số miễn cưỡng. Tùy thuộc vào quan điểm của một người về tính tất yếu của chiến tranh, Louis đã hành động hợp lý hoặc kiêu ngạo. Ông xác nhận rằng Philip V vẫn giữ được quyền của mình ở Pháp mặc dù ông có vị thế mới ở Tây Ban Nha. Phải thừa nhận rằng, ông chỉ có thể đưa ra giả thuyết về một khả năng lý thuyết chứ không phải cố gắng liên minh Pháp-Tây Ban Nha. Nhưng hành động của ông chắc chắn không được coi là vô tư. Hơn nữa, Louis đã gửi quân đến Hà Lan thuộc Tây Ban Nha để trục xuất các đơn vị đồn trú của Hà Lan và đảm bảo sự công nhận của Hà Lan đối với Philip V. Năm 1701, Philip đã chuyển asiento (quyền cung cấp nô lệ cho các thuộc địa của Tây Ban Nha) cho Pháp, như một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ ngày càng phát triển của hai quốc gia. Khi căng thẳng gia tăng, Louis quyết định công nhận James Stuart, con trai của James II, là Vua của Anh, Scotland và Ireland sau khi James II qua đời, khiến William III vô cùng tức giận. Những hành động này đã khiến Anh và Cộng hòa Hà Lan vô cùng tức giận.[103] Với Hoàng đế La Mã Thần thánh và các tiểu bang Đức, họ đã thành lập một Liên minh lớn khác và tuyên chiến với Pháp vào năm 1702. Chính sách ngoại giao của Pháp đã đảm bảo Bavaria, Bồ Đào Nha và Savoy là đồng minh của Pháp-Tây Ban Nha.[104]
Ngay cả trước khi chiến tranh chính thức được tuyên bố, các cuộc xung đột đã bắt đầu với sự xâm lược của Đế quốc ở Ý. Sau khi cuối cùng được tuyên bố, Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha kéo dài gần như cho đến khi Louis qua đời, gây tổn thất lớn cho ông và nước Pháp.
Cuộc chiến bắt đầu với những thành công của Pháp, nhưng tài năng của John Churchill, Công tước Marlborough thứ nhất và Eugene xứ Savoy đã ngăn chặn những chiến thắng này và phá vỡ huyền thoại về sự bất khả chiến bại của Pháp. Bộ đôi này đã cho phép Palatinate và Áo chiếm đóng Bavaria sau chiến thắng của họ tại Trận Blenheim. Maximilian II Emanuel, Tuyển hầu tước xứ Bavaria, đã phải chạy trốn đến Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Tác động của chiến thắng này đã giành được sự ủng hộ của Bồ Đào Nha và Savoy. Sau đó, Trận Ramillies đã trao các Quốc gia vùng đất Thấp cho Đồng minh, và Trận Turin đã buộc Louis phải sơ tán khỏi Ý, để lại nơi này cho lực lượng Đồng minh. Marlborough và Eugene đã gặp lại nhau tại Trận Oudenarde, cho phép họ xâm lược Pháp.
Pháp đã thiết lập liên lạc với Francis II Rákóczi và hứa sẽ hỗ trợ nếu ông ủng hộ sự nghiệp giành độc lập của Hungary.
Thất bại, nạn đói và nợ chồng chất đã làm suy yếu nước Pháp rất nhiều. Từ năm 1693 đến năm 1710, hơn hai triệu người đã chết trong hai nạn đói, tệ hơn khi quân đội cướp bóc chiếm giữ nguồn cung cấp lương thực từ các ngôi làng.[105] Trong cơn tuyệt vọng, Louis đã ra lệnh xâm lược đảo Guernsey của Anh vào mùa thu năm 1704 với mục đích cướp phá vụ thu hoạch thành công của họ. Đến mùa đông năm 1708–09, ông sẵn sàng chấp nhận hòa bình bằng mọi giá. Ông đồng ý rằng toàn bộ đế chế Tây Ban Nha sẽ được đầu hàng Đại công tước Charles, và cũng đồng ý quay trở lại biên giới của Hòa ước Westphalia, từ bỏ tất cả các lãnh thổ mà ông đã giành được trong hơn 60 năm. Nhưng ông không thể hứa rằng Philip V sẽ chấp nhận các điều khoản này, vì vậy Đồng minh yêu cầu Louis một mình tấn công cháu trai của mình để buộc ông phải chấp nhận các điều khoản này. Nếu ông không thể đạt được điều này trong năm, chiến tranh sẽ tiếp tục. Louis sẽ không chấp nhận các điều khoản này.[106]
Các giai đoạn cuối của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha chứng minh rằng Đồng minh không thể duy trì Đại công tước Charles ở Tây Ban Nha cũng giống như Pháp không thể giữ lại toàn bộ tài sản thừa kế của Tây Ban Nha cho Philip V. Đồng minh đã bị trục xuất khỏi miền trung Tây Ban Nha sau chiến thắng của Pháp-Tây Ban Nha tại các Trận Villaviciosa và Brihuega năm 1710. Các lực lượng Pháp ở những nơi khác vẫn ngoan cường bất chấp thất bại của họ. Đồng minh đã phải chịu một chiến thắng thảm bại tại Trận Malplaquet với 21.000 thương vong, gấp đôi so với quân Pháp.[107] Cuối cùng, Pháp đã lấy lại được lòng tự hào quân sự của mình với chiến thắng quyết định tại Denain năm 1712.
Những thành công quân sự của Pháp gần cuối chiến tranh diễn ra trong bối cảnh tình hình chính trị ở Áo đã thay đổi. Năm 1705, Hoàng đế Leopold I qua đời. Con trai cả và người kế vị của ông, Joseph I, đã kế vị ông vào năm 1711. Người thừa kế của ông không ai khác chính là Đại công tước Charles, người đã giành được quyền kiểm soát toàn bộ đất đai của anh trai mình ở Áo. Nếu đế chế Tây Ban Nha sau đó rơi vào tay ông, nó sẽ hồi sinh một vùng đất rộng lớn như của Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles V vào thế kỷ 16. Đối với các cường quốc hàng hải của Anh và Cộng hòa Hà Lan, điều này sẽ không mong muốn như một liên minh Pháp-Tây Ban Nha.[108]
Do quan điểm mới mẻ của Anh về cán cân quyền lực ở châu Âu, các cuộc đàm phán Anh-Pháp đã bắt đầu, lên đến đỉnh điểm là Hòa ước Utrecht năm 1713 giữa Louis, Philip V của Tây Ban Nha, Anne của Anh và Cộng hòa Hà Lan. Năm 1714, sau khi mất Landau và Freiburg, Hoàng đế La Mã Thần thánh cũng đã ký kết hòa bình với Pháp trong các Hiệp ước Rastatt và Baden.
Trong thỏa thuận chung, Philip V giữ lại Tây Ban Nha và các thuộc địa của nước này, trong khi Áo tiếp nhận Hà Lan của Tây Ban Nha và chia Tây Ban Nha Ý với Savoy. Anh giữ Gibraltar và Menorca. Louis đồng ý rút lại sự ủng hộ của mình đối với James Stuart, con trai của James II và là người đòi ngai vàng của Anh và Ireland, và nhượng Newfoundland, Rupert's Land và Acadia ở châu Mỹ cho Anne. Anh được hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp ước, nhưng các điều khoản cuối cùng có lợi hơn nhiều cho Pháp so với những điều khoản được thảo luận trong các cuộc đàm phán hòa bình vào năm 1709 và 1710. Pháp vẫn giữ Île-Saint-Jean và Île Royale, và Louis đã giành được một số vùng lãnh thổ nhỏ ở châu Âu, chẳng hạn như Công quốc Orange và Thung lũng Ubaye, bao phủ các đèo xuyên dãy Anpơ vào Ý. Nhờ Louis, các đồng minh của ông là Tuyển hầu tước xứ Bavaria và Cologne đã được khôi phục lại tình trạng trước chiến tranh và trả lại đất đai của họ.[109]
Louis và vợ là Maria Theresa của Tây Ban Nha có sáu người con từ cuộc hôn nhân được ký kết vào năm 1660. Tuy nhiên, chỉ có một người con, người con cả, sống sót đến tuổi trưởng thành: Louis, le Grand Dauphin, được gọi là Monseigneur. Maria Theresa qua đời vào năm 1683, khi đó Louis nhận xét rằng bà chưa bao giờ khiến ông cảm thấy khó chịu trong bất kỳ dịp nào khác.
Mặc dù có bằng chứng về tình cảm ngay từ đầu cuộc hôn nhân, Louis chưa bao giờ chung thủy với Maria Theresa. Ông đã có một loạt tình nhân, cả chính thức và không chính thức. Trong số những người được ghi chép rõ ràng hơn có Louise de La Vallière (người mà ông có năm người con; 1661–1667), Bonne de Pons d'Heudicourt (1665), Catherine Charlotte de Gramont (1665), Françoise-Athénaïs, Marquise de Montespan (người mà ông có bảy người con; 1667–1680), Anne de Rohan-Chabot (1669–1675), Claude de Vin des Œillets (một người con sinh năm 1676), Isabelle de Ludres (1675–1678), và Marie Angélique de Scorailles (1679–1681), người đã qua đời ở tuổi 19 khi sinh con. Thông qua những mối quan hệ này, ông đã sinh ra nhiều đứa con ngoài giá thú, hầu hết trong số đó ông đã kết hôn với các thành viên của nhánh thiếu sinh quân của hoàng gia.
Louis tỏ ra tương đối chung thủy với người vợ thứ hai của mình, Françoise d'Aubigné, Hầu tước de Maintenon. Lần đầu tiên ông gặp bà thông qua công việc chăm sóc con cái của ông thông qua Madame de Montespan, lưu ý đến sự chăm sóc mà bà dành cho người được ông yêu thích, Louis Auguste, Công tước xứ Maine. Lúc đầu, nhà vua đã bị đẩy lùi bởi việc thực hành tôn giáo nghiêm ngặt của bà, nhưng ông đã ấm lòng với bà thông qua sự chăm sóc của bà dành cho con cái của ông.[110]
Khi ông hợp pháp hóa con cái của mình với Madame de Montespan vào ngày 20 tháng 12 năm 1673, Françoise d'Aubigné trở thành nữ gia sư hoàng gia tại Saint-Germain. Với tư cách là nữ gia sư, bà là một trong số rất ít người được phép nói chuyện với ông như một người bình đẳng, không có giới hạn. Người ta tin rằng họ đã kết hôn bí mật tại Versailles vào hoặc khoảng ngày 10 tháng 10 năm 1683[111] hoặc tháng 1 năm 1684.[112] Cuộc hôn nhân này, mặc dù không bao giờ được công bố hoặc thảo luận công khai, là một bí mật công khai và kéo dài cho đến khi ông qua đời.[113]
Louis là một vị vua ngoan đạo và sùng đạo, người tự coi mình là người đứng đầu và bảo vệ Giáo hội Công giáo tại Pháp. Ông thực hiện các nghi lễ hàng ngày bất kể ông ở đâu, tuân theo lịch phụng vụ một cách thường xuyên.[114] Dưới ảnh hưởng của người vợ thứ hai rất sùng đạo, ông trở nên mạnh mẽ hơn nhiều trong việc thực hành đức tin Công giáo của mình. Điều này bao gồm lệnh cấm biểu diễn opera và hài kịch trong Mùa Chay.[115]
Vào giữa và cuối triều đại của mình, trung tâm cho các nghi lễ tôn giáo của Nhà vua thường là Chapelle Royale tại Versailles. Sự phô trương là một đặc điểm nổi bật của Thánh lễ hàng ngày, các lễ kỷ niệm hàng năm, chẳng hạn như Tuần lễ Thánh và các nghi lễ đặc biệt.[116] Louis thành lập Hội Thừa sai Paris, nhưng liên minh không chính thức của ông với Đế chế Ottoman đã bị chỉ trích vì làm suy yếu Cơ đốc giáo.
Xem thêm: Phong cách Louis XIV
Louis đã hào phóng hỗ trợ triều đình hoàng gia Pháp và những người làm việc dưới quyền ông. Ông đã đưa Viện Hàn lâm Pháp vào dưới sự bảo trợ của mình và trở thành "Người bảo trợ" của viện này. Ông đã cho phép nền văn học cổ điển Pháp phát triển mạnh mẽ bằng cách bảo vệ những nhà văn như Molière, Racine và La Fontaine, những người có tác phẩm vẫn còn ảnh hưởng cho đến ngày nay. Louis cũng bảo trợ nghệ thuật thị giác bằng cách tài trợ và ủy quyền cho các nghệ sĩ như Charles Le Brun, Pierre Mignard, Antoine Coysevox và Hyacinthe Rigaud, những người có tác phẩm trở nên nổi tiếng khắp châu Âu. Các nhà soạn nhạc và nhạc công như Jean-Baptiste Lully, Jacques Champion de Chambonnières và François Couperin đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1661, Louis thành lập Viện Hàn lâm Khiêu vũ Hoàng gia và năm 1669, Viện Hàn lâm Opera, những sự kiện thúc đẩy quan trọng trong quá trình phát triển của ballet. Ông cũng thu hút, hỗ trợ và bảo trợ cho các nghệ sĩ như André Charles Boulle, người đã cách mạng hóa nghệ thuật khảm gỗ bằng nghệ thuật khảm của mình, ngày nay được gọi là "tác phẩm Boulle". Luôn tìm kiếm những tài năng mới, nhà vua đã phát động các cuộc thi âm nhạc: năm 1683, Michel-Richard de Lalande trở thành phó giám đốc Nhà nguyện Hoàng gia, sáng tác các bản Giao hưởng cho Soupers du Roy cùng với 77 bản Grand Motets quy mô lớn.
Trong suốt bốn chiến dịch xây dựng, Louis đã chuyển đổi một nhà nghỉ săn bắn do Louis XIII xây dựng thành Cung điện Versailles ngoạn mục. Ngoại trừ Nhà nguyện Hoàng gia hiện tại (được xây dựng gần cuối triều đại của ông), cung điện đã đạt được phần lớn diện mạo hiện tại sau chiến dịch xây dựng thứ ba, sau đó là việc chính thức chuyển triều đình hoàng gia đến Versailles vào ngày 6 tháng 5 năm 1682. Versailles trở thành bối cảnh lộng lẫy, đầy cảm hứng cho các vấn đề nhà nước và tiếp đón các chức sắc nước ngoài. Tại Versailles, chỉ có nhà vua mới thu hút được sự chú ý.
Nhiều lý do đã được đưa ra cho việc xây dựng cung điện xa hoa và uy nghiêm này, cũng như việc di dời trụ sở của chế độ quân chủ. Người viết hồi ký Saint-Simon suy đoán rằng Louis coi Versailles là một trung tâm quyền lực biệt lập, nơi những âm mưu phản quốc có thể dễ dàng bị phát hiện và ngăn chặn hơn. Cũng có suy đoán rằng cuộc nổi loạn của Fronde khiến Louis ghét Paris, nơi ông đã từ bỏ để đến một nơi ẩn dật ở nông thôn, nhưng việc ông tài trợ cho nhiều công trình công cộng ở Paris, chẳng hạn như thành lập lực lượng cảnh sát và đèn đường,[117] không mấy tin cậy vào lý thuyết này. Một ví dụ nữa về sự quan tâm liên tục của mình đối với thủ đô, Louis đã xây dựng Hôtel des Invalides, một khu phức hợp quân sự và cho đến ngày nay là nơi ở của các sĩ quan và binh lính bị thương hoặc tuổi già. Trong khi dược lý học vẫn còn khá thô sơ vào thời của ông, Invalides đã đi tiên phong trong các phương pháp điều trị mới và đặt ra các tiêu chuẩn mới cho việc điều trị tại nhà dưỡng lão. Việc ký kết Hiệp ước Aix-la-Chapelle năm 1668 cũng thúc đẩy Louis phá hủy các bức tường phía bắc của Paris vào năm 1670 và thay thế chúng bằng những đại lộ rộng rợp bóng cây.[118]
Louis cũng đã cải tạo và nâng cấp Cung điện Louvre và các dinh thự hoàng gia khác. Gian Lorenzo Bernini ban đầu dự định sẽ xây thêm các phần mở rộng cho Bảo tàng Louvre; tuy nhiên, kế hoạch của ông sẽ có nghĩa là phá hủy phần lớn cấu trúc hiện có, thay thế bằng một biệt thự mùa hè của Ý ở trung tâm Paris. Kế hoạch của Bernini cuối cùng đã bị gác lại để ủng hộ cho Cột trụ Louvre thanh lịch do ba người Pháp thiết kế: Louis Le Vau, Charles Le Brun và Claude Perrault. Với việc chuyển Cung điện đến Versailles, Bảo tàng Louvre đã được trao cho nghệ thuật và công chúng.[119] Trong chuyến thăm từ Rome, Bernini cũng đã thực hiện một bức tượng bán thân nổi tiếng của nhà vua.
Ít có nhà cai trị nào trong lịch sử thế giới kỷ niệm mình theo cách hoành tráng như Louis.[120] Ông đã xây dựng hình ảnh của mình như Vua Mặt trời (le Roi Soleil), trung tâm của vũ trụ "không ai sánh bằng". Louis đã sử dụng nghi lễ của triều đình và nghệ thuật để xác nhận và tăng cường quyền kiểm soát của mình đối với nước Pháp. Với sự hỗ trợ của ông, Colbert đã thiết lập ngay từ đầu triều đại cá nhân của Louis một hệ thống tập trung và được thể chế hóa để tạo ra và duy trì hình ảnh hoàng gia. Do đó, Nhà vua được miêu tả phần lớn trong sự uy nghiêm hoặc trong chiến tranh, đặc biệt là chống lại Tây Ban Nha. Hình ảnh về nhà vua này được tìm thấy trong nhiều phương tiện biểu đạt nghệ thuật, chẳng hạn như hội họa, điêu khắc, sân khấu, khiêu vũ, âm nhạc và các cuốn niên giám truyền bá tuyên truyền của hoàng gia đến đông đảo dân chúng.
Trong suốt cuộc đời mình, Louis đã ủy quyền thực hiện nhiều tác phẩm nghệ thuật để khắc họa chính mình, trong số đó có hơn 300 bức chân dung chính thức. Những bức chân dung đầu tiên về Louis đã tuân theo các quy ước hội họa thời bấy giờ khi miêu tả vị vua trẻ tuổi như hiện thân của hoàng gia Pháp. Sự lý tưởng hóa này về nhà vua tiếp tục trong các tác phẩm sau này, tránh mô tả tác động của bệnh đậu mùa mà Louis mắc phải vào năm 1647. Vào những năm 1660, Louis bắt đầu được miêu tả là một hoàng đế La Mã, thần Apollo hoặc Alexander Đại đế, như có thể thấy trong nhiều tác phẩm của Charles Le Brun, chẳng hạn như tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ và đồ trang trí của các tượng đài lớn.
Việc miêu tả nhà vua theo cách này tập trung vào các thuộc tính ngụ ngôn hoặc thần thoại, thay vì cố gắng tạo ra một hình ảnh chân thực. Khi Louis già đi, cách miêu tả ông cũng vậy. Tuy nhiên, vẫn có sự chênh lệch giữa cách miêu tả thực tế và yêu cầu của tuyên truyền hoàng gia. Không có minh họa nào tốt hơn về điều này hơn là trong bức Chân dung Louis XIV được Hyacinthe Rigaud tái bản thường xuyên năm 1701, trong đó Louis 63 tuổi dường như đứng trên một đôi chân trẻ trung một cách bất thường.[121]
Bức chân dung của Rigaud minh họa cho đỉnh cao của nghệ thuật chân dung hoàng gia trong thời kỳ trị vì của Louis. Mặc dù Rigaud đã tạo ra một bức chân dung Louis đáng tin cậy, nhưng bức chân dung này không có ý định thực hiện chủ nghĩa hiện thực hay khám phá tính cách của Louis. Chắc chắn, Rigaud quan tâm đến chi tiết và mô tả trang phục của nhà vua với độ chính xác cao, xuống đến cả khóa giày của ông.[122]
Tuy nhiên, Rigaud có ý định tôn vinh chế độ quân chủ. Bản gốc của Rigaud, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Louvre, ban đầu được dùng làm quà tặng cho cháu trai của Louis, Philip V của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Louis rất hài lòng với tác phẩm này đến nỗi ông giữ bản gốc và yêu cầu gửi một bản sao cho cháu trai mình. Đây là bản sao đầu tiên trong số nhiều bản sao, cả bản toàn thân và bản bán thân, do Rigaud thực hiện, thường là với sự trợ giúp của các trợ lý của ông. Bức chân dung này cũng trở thành hình mẫu cho chân dung hoàng gia và đế quốc Pháp cho đến thời Charles X hơn một thế kỷ sau đó. Trong tác phẩm của mình, Rigaud tuyên bố địa vị hoàng gia cao quý của Louis thông qua tư thế thanh lịch và biểu cảm kiêu hãnh, lễ phục và ngai vàng của hoàng gia, áo choàng hoa huệ nghi lễ lộng lẫy, cũng như cột thẳng đứng ở phía sau, cùng với rèm cửa, đóng vai trò đóng khung hình ảnh uy nghiêm này.
Ngoài các bức chân dung, Louis đã ủy quyền ít nhất 20 bức tượng của chính mình vào những năm 1680, để đặt tại Paris và các thị trấn tỉnh lẻ như những biểu hiện vật lý của sự cai trị của ông. Ông cũng ủy quyền cho "các nghệ sĩ chiến tranh" đi theo ông trong các chiến dịch để ghi lại những chiến thắng quân sự của mình. Để nhắc nhở người dân về những chiến thắng này, Louis đã dựng lên các vòm khải hoàn cố định ở Paris và các tỉnh lần đầu tiên kể từ khi Đế chế La Mã suy tàn.
Triều đại của Louis đánh dấu sự ra đời và giai đoạn đầu của nghệ thuật làm huy chương. Các nhà cai trị thế kỷ XVI thường phát hành huy chương với số lượng nhỏ để kỷ niệm các sự kiện lớn trong triều đại của họ. Tuy nhiên, Louis đã đúc hơn 300 huy chương để kỷ niệm câu chuyện về nhà vua bằng đồng, được lưu giữ trong hàng nghìn hộ gia đình trên khắp nước Pháp.
Ông cũng sử dụng thảm trang trí như một phương tiện tôn vinh chế độ quân chủ. Thảm trang trí có thể mang tính ẩn dụ, mô tả các yếu tố hoặc mùa, hoặc mang tính hiện thực, mô tả nơi ở của hoàng gia hoặc các sự kiện lịch sử. Chúng là một trong những phương tiện quan trọng nhất để truyền bá tuyên truyền của hoàng gia trước khi xây dựng Sảnh Gương tại Versailles.[123]
Louis yêu thích ba lê và thường xuyên nhảy trong các vở ba lê cung đình trong nửa đầu triều đại của mình. Nhìn chung, Louis là một vũ công nhiệt tình, người đã biểu diễn 80 vai trong 40 vở ba lê lớn. Điều này gần giống với sự nghiệp của một vũ công ba lê chuyên nghiệp.[124]
Những lựa chọn của ông mang tính chiến lược và đa dạng. Ông đã nhảy bốn vai trong ba vở hài kịch ba lê của Molière, là những vở kịch có nhạc đệm và khiêu vũ. Louis đã vào vai một người Ai Cập trong Le Mariage forcé năm 1664, một quý ông người Moor trong Le Sicilien năm 1667 và cả Neptune và Apollo trong Les Amants magnifiques năm 1670.
Đôi khi ông đóng những vai chính phù hợp với hoàng gia hoặc thần thánh (như Neptune, Apollo hoặc Mặt trời). Vào những lúc khác, ông sẽ đảm nhận những vai trần tục trước khi xuất hiện ở phần cuối trong vai chính. Người ta cho rằng, mọi lúc, ông đều mang đến cho các vai diễn của mình sự uy nghiêm và thu hút sự chú ý bằng năng khiếu khiêu vũ của mình. Đối với Louis, ba lê có thể không chỉ là một công cụ để thao túng bộ máy tuyên truyền của ông. Số lượng lớn các buổi biểu diễn của ông cũng như sự đa dạng của các vai diễn mà ông đảm nhận có thể chỉ ra sự hiểu biết sâu sắc hơn và sự quan tâm đến loại hình nghệ thuật này.[125]
Múa ba lê được Louis sử dụng như một công cụ chính trị để nắm giữ quyền lực đối với nhà nước của mình. Ông đã đưa ba lê vào sâu sắc các chức năng xã hội của triều đình và tập trung sự chú ý của các nhà quý tộc vào việc duy trì các tiêu chuẩn trong múa ba lê, thực sự khiến họ mất tập trung khỏi các hoạt động chính trị.[126] Năm 1661, Học viện Khiêu vũ Hoàng gia được Louis thành lập để thúc đẩy tham vọng của mình. Pierre Beauchamp, giáo viên dạy khiêu vũ riêng của ông, được Louis ra lệnh đưa ra một hệ thống ký hiệu để ghi lại các buổi biểu diễn ba lê, và ông đã làm rất thành công. Tác phẩm của ông đã được Feuillet tiếp nhận và xuất bản vào năm 1700 với tên gọi Choregraphie. Sự phát triển lớn này trong ba lê đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy văn hóa Pháp và ba lê trên khắp châu Âu trong thời đại của Louis.[127]
Louis rất coi trọng nghi thức trong múa ba lê, rõ ràng là thấy trong "La belle danse" (phong cách quý tộc Pháp). Điệu múa này đòi hỏi nhiều kỹ năng khó hơn với các động tác rất giống với hành vi của cung đình, như một cách để nhắc nhở các quý tộc về quyền lực tuyệt đối của nhà vua và địa vị của họ. Tất cả các chi tiết và quy tắc được nén lại trong năm vị trí của cơ thể được Beauchamp mã hóa.[128]
Bên cạnh hình ảnh và miêu tả chính thức về Louis, thần dân của ông cũng tuân theo một bài diễn thuyết không chính thức chủ yếu bao gồm các ấn phẩm bí mật, bài hát phổ biến và tin đồn cung cấp một cách giải thích khác về Louis và chính phủ của ông. Họ thường tập trung vào những đau khổ phát sinh từ chính phủ yếu kém, nhưng cũng mang theo hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn khi Louis thoát khỏi ảnh hưởng độc hại của các bộ trưởng và tình nhân của mình, và tự mình nắm quyền lực. Mặt khác, các bản kiến nghị gửi trực tiếp đến Louis hoặc các bộ trưởng của ông đã khai thác hình ảnh và ngôn ngữ truyền thống của chế độ quân chủ. Những cách giải thích khác nhau về Louis này đầy rẫy những mâu thuẫn nội tại phản ánh sự kết hợp giữa những trải nghiệm thường ngày của người dân với ý tưởng về chế độ quân chủ.[129]
Mặc dù Louis cố gắng xây dựng hình ảnh một vị vua khỏe mạnh và cường tráng, nhưng có bằng chứng cho thấy sức khỏe của ông không được tốt. Ông mắc nhiều bệnh: ví dụ, các triệu chứng của bệnh tiểu đường, như đã được xác nhận trong các báo cáo về viêm màng xương mủ năm 1678, áp xe răng năm 1696, cùng với các vết loét tái phát, ngất xỉu, bệnh gút, chóng mặt, bốc hỏa và đau đầu.
Từ năm 1647 đến năm 1711, ba bác sĩ trưởng của nhà vua (Antoine Vallot, Antoine d'Aquin và Guy-Crescent Fagon) đã ghi lại tất cả các vấn đề sức khỏe của ông trong Journal de Santé du Roi (Nhật ký sức khỏe của nhà vua), một báo cáo hàng ngày về sức khỏe của ông. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1686, Louis đã trải qua một ca phẫu thuật đau đớn để cắt bỏ một lỗ rò hậu môn do bác sĩ phẫu thuật Charles Felix de Tassy thực hiện, người đã chuẩn bị một con dao mổ cong có hình dạng đặc biệt cho dịp này. Vết thương mất hơn hai tháng để lành.[130]
Louis qua đời vì bệnh hoại thư tại Versailles vào ngày 1 tháng 9 năm 1715, bốn ngày trước sinh nhật lần thứ 77 của ông, sau 72 năm trị vì. Chịu đựng nhiều đau đớn trong những ngày cuối đời, cuối cùng ông đã "ra đi mà không cần nỗ lực nào, như ngọn nến tắt", trong khi đọc thánh ca Deus, in adjutorium me festina (Lạy Chúa, xin hãy mau chóng giúp con).[131] Thi hài của ông được an táng tại Vương cung thánh đường Saint-Denis bên ngoài Paris. Thi hài nằm đó mà không bị xáo trộn trong khoảng 80 năm cho đến khi những người cách mạng khai quật và tiêu hủy tất cả hài cốt được tìm thấy trong Vương cung thánh đường.[132] Năm 1848, tại Nhà Nuneham, một mảnh tim ướp xác của Louis, được lấy từ lăng mộ của ông và được giữ trong một chiếc khóa bạc của Ngài Harcourt, Tổng giám mục York, đã được đưa cho Viện trưởng Westminster, William Buckland, người đã ăn nó.[133]
Hồng y Armand Gaston Maximilien de Rohan đã cử hành Nghi lễ cuối cùng (xưng tội, lễ ban phước lành và xức dầu) cho vua Louis XIV.[134]
Louis sống lâu hơn hầu hết những người thân trong gia đình hợp pháp trực hệ của mình. Người con trai hợp pháp cuối cùng còn sống của ông, Louis, Dauphin của Pháp, đã qua đời vào năm 1711. Chỉ một năm sau, Công tước xứ Burgundy, người con trai cả trong ba người con trai của Dauphin và sau đó là người thừa kế của Louis, đã kế vị cha mình. Con trai cả của Burgundy, Louis, Công tước xứ Brittany, đã gia nhập họ vài tuần sau đó. Vì vậy, trên giường bệnh, người thừa kế rõ ràng của Louis là chắt trai năm tuổi của ông, Louis, Công tước xứ Anjou, con trai út của Burgundy.
Louis đã thấy trước một người kế vị chưa đủ tuổi và tìm cách hạn chế quyền lực của cháu trai mình là Philip II, Công tước xứ Orléans, người, với tư cách là họ hàng hợp pháp còn sống gần nhất của ông ở Pháp, có thể sẽ trở thành nhiếp chính cho Louis XV tương lai. Theo đó, nhà vua đã thành lập một hội đồng nhiếp chính như Louis XIII đã làm để chuẩn bị cho việc Louis XIV còn quá nhỏ, với một số quyền lực được trao cho người con ngoài giá thú của ông là Louis-Auguste de Bourbon, Công tước xứ Maine.[135] Tuy nhiên, Orléans đã hủy bỏ di chúc của Louis tại Parlement of Paris sau khi ông qua đời và tự mình trở thành nhiếp chính duy nhất. Ông đã tước bỏ tước hiệu Hoàng tử của Dòng máu mà Louis đã ban cho Maine và anh trai của ông, Louis-Alexandre, Bá tước xứ Toulouse, và làm giảm đáng kể quyền lực và đặc quyền của Maine.[136]
Nhiều câu trích dẫn được cho là của Louis XIV theo truyền thuyết.
Câu nói nổi tiếng "Trẫm là quốc gia" ("L'État, c'est moi.") được ghi chép lại ít nhất là từ cuối thế kỷ 18. Câu nói này được nhắc lại rộng rãi nhưng cũng bị lên án là ngụy tạo vào đầu thế kỷ 19.[137]
Ông đã nói, "Mỗi lần tôi bổ nhiệm ai đó vào một vị trí còn trống, tôi khiến một trăm người không vui và một người vô ơn." Louis được nhiều nhân chứng ghi lại là đã nói trên giường bệnh: "Je m'en vais, mais l'État demeurera toujours." ("Trẫm ra đi, nhưng Quốc gia sẽ luôn tồn tại.")[138]
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.