Triết gia Việt Nam From Wikipedia, the free encyclopedia
Trần Đức Thảo (26 tháng 9 năm 1917- 24 tháng 4 năm 1993) là một triết gia người Việt nổi tiếng trên thế giới. Các công trình của ông là những nỗ lực hợp nhất hiện tượng học và triết học Marxist.
Trần Đức Thảo | |
---|---|
Sinh | 26 tháng 9 năm 1917 làng Song Tháp, Châu Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh, Liên bang Đông Dương |
Mất | 24 tháng 4 năm 1993 Paris, Pháp |
Quốc tịch | Việt Nam |
Học vị | Triết gia |
Trường lớp |
|
Phối ngẫu | Nguyễn Thị Nhứt (1954-1967) |
Giải thưởng | Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học xã hội năm 2000 (truy tặng) |
Thời kỳ | Thế kỷ 20 |
Vùng | Triết học Việt Nam |
Đối tượng chính | Hiện tượng học Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa Marx |
Ảnh hưởng bởi |
Trần Đức Thảo, sinh ngày 26/9/1917, tại làng Thái Bình, quê quán tại làng Song Tháp, phường Châu Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là con một viên chức bưu điện,
Ông là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), giải nhì cuộc thi triết học các trường trung học toàn quốc Pháp, đỗ tú tài Pháp năm 1935.[1]
Năm 1936, ông nhận học bổng của Phủ toàn quyền Đông Dương sang Paris, Pháp, và thi đậu vào trường École normale supérieure (Paris) năm 1939.
Ông đậu thủ khoa đồng hạng bằng Thạc sĩ triết học (ngang điểm với Jules Vuillemin) tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942). Với luận án "Phương pháp hiện tượng luận của Husserl", ông là người Việt Nam đầu tiên được nhận bằng thạc sĩ Triết học.Trong những năm thập niên 1940, ông bắt đầu nghiên cứu viết cuốn sách đầu tiên "Phénoménologie et matérialisme dialectique" ("Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng") mà sau này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới. Sách này lần đầu tiên xuất bản năm 1951.
Thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu nước khi Việt Nam vừa giành được độc lập tháng 8 năm 1945. Thư này được in trên tờ Cờ giải phóng, cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương.[2]
Khoảng tháng 10 đến tháng 12 năm 1945, do sự ủng hộ tích cực đối với Việt Minh và chính phủ Hồ Chí Minh, ông bị chính quyền Pháp bắt giam với lý do ông là mối đe dọa an ninh với Pháp.
Trong năm 1946, tháng 5 và tháng 6, Trần Đức Thảo gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp nhiều lần, ngỏ ý muốn về Việt Nam nhưng Hồ Chí Minh đã khuyên Trần Đức Thảo ở lại Pháp tiếp tục nghiên cứu khoa học và tham gia hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước.[3]
Những năm tháng ở Pháp ông tham gia tích cực vào phong trào chống đế quốc Pháp ủng hộ Việt Minh. Ông là chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước tại Pháp.[cần dẫn nguồn]
Vào những năm 1948, 1949, ông tham gia vào những cuộc "bút chiến" khoa học, trong đó có các tranh luận với các nhà triết học bậc thầy thời bấy giờ là Alexandre Kojève và Jean-Paul Sartre.[cần dẫn nguồn]
Ngày 4/1/1949, Trần Đức Thảo được Chủ Tịch Hồ Chí Minh cử làm thành viên Hội Đồng Giáo Dục Quốc Gia.
Năm 1951, ông rời Paris về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm 1952, đầu 1953 ông là thư ký tại văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh.
Năm 1953-1954, đi nghiên cứu thực tế trong quân đội, trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp ở Việt Bắc, đi tham gia cải cách ruộng đất ở Phú Thọ.
Sau 1954, từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo kết hôn với Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhứt, đến ngày 5 tháng 1 năm 1967, theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Nhứt hai ông bà đã thuận tình ly hôn.[4]
Năm 1954 tham gia Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa, tiền thân của Ủy ban Khoa học Xã hội và Ban Tuyên huấn Trung ương sau này. Trong thời gian này Trần Đức Thảo đã công bố nhiều tác phẩm trên tạp chí Văn-Sử-Địa.
Năm 1955-1956, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội).
Năm 1957-1958, Ông bị kết án dính líu đến phong trào Nhân văn - Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ.
Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, theo gợi ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng và ông Trường Chinh đã bàn với Ban tổ chức Trung ương và Bộ trưởng Bộ giáo dục Nguyễn Văn Huyên bố trí Trần Đức Thảo về công tác tại NXB Sự Thật, để ông tiếp tục nghiên cứu triết học, có điều kiện liên hệ trao đổi khoa học với các nhà triết học các nước, đặc biệt là các nhà triết học Pháp. Từ đây công việc chủ yếu của Trần Đức Thảo là nghiên cứu dịch thuật các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Marx-Lenin, viết các tác phẩm khoa học, để xuất bản tại Pháp và một số nước khác.[3]
Ông bị cho thôi chức Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội và không được tiếp tục giảng dạy ở đây. Ông hạn chế liên hệ với người khác, bị cô lập trong cuộc sống[5].
Kể từ năm 1960, ông Cù Huy Chử, thành viên Tổ thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc đó, đã lưu trữ và nhờ đánh máy lại các trang bản thảo viết tay của Trần Đức Thảo.[9]
Năm 1985, sau khi đi Cộng hòa Dân chủ Đức vừa chữa bệnh, vừa làm việc với Viện hàn lâm khoa học của CHDC Đức, ông có sang làm việc với Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.
Năm 1991, ông sang Pháp chữa bệnh kết hợp với "nghiên cứu khoa học, do Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử đi" (theo TS. Cù Huy Chử) và mất tại Paris vào năm sau. Theo những anh chị em có dịp tiếp cận, Trần Đức Thảo cho biết ông được tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Ban bí thư cử sang Pháp để "giải độc trí thức Việt Kiều" khỏi những ảnh hưởng xấu từ những thông tin trên truyền thông phương Tây.[8] Di hài ông được nhà nước đưa về an táng tại Khu A Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội.
“ | Sở dĩ có những lệch lạc ở một số sinh viên khoa Văn và khoa Sử là vì họ đã chịu cái ảnh hưởng tàn khốc của Trương Tửu và Trần Đức Thảo... Nhà trường đòi hỏi các cán bộ giảng dạy trước khi lên lớp phải soạn giáo trình và giáo án; nhưng Tửu và Thảo thì không chịu viết giáo trình, lấy cớ là môn mình phụ trách khó quá chưa thể cho in thành tài liệu được. Sự thực là họ sợ mực đen giấy trắng dễ biểu lộ những tư tưởng phản động của họ. Họ thường tay không lên lớp rồi nói lung tung, không theo một phương pháp sư phạm nào. Vì không có giáo án nên đã có lần Trương Tửu không chuẩn bị, phải nhai lại một bài đã giảng kỳ trước, làm cho sinh viên hết sức công phẫn...
... Nhưng Trương Tửu và Trần Đức Thảo thì ngược lại, chỉ âm mưu dùng cái diễn đàn của trường đại học để đả kích chế độ, đả kích Đảng và xuyên tạc chân lý. Thí dụ: Tửu đã say sưa giảng về Vũ Trọng Phụng để chứng minh rằng Vũ Trọng Phụng sáng suốt hơn Đảng. Còn Thảo thì trong hai năm dạy lịch sử tư tưởng chỉ cố ý dừng lại ở Hê-ghen, không hề giảng đến Mác, Thảo luôn luôn dùng cái "hạt nhân duy lý" để xóa nhòa ranh giới giữa duy vật và duy tâm, xóa nhòa ranh giới giữa ta và địch. Quả là Tửu và Thảo đã dụng tâm làm tan rã lòng tin tưởng của sinh viên vào Đảng, vào chế độ. |
” |
Giáo sư Trần Đức Thảo để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm gần 200 tác phẩm hầu hết bằng tiếng Pháp, tiếng Đức (được xuất bản ở Pháp, Đức, Mỹ) và một số bằng tiếng Việt với khoảng 2 vạn 6 ngàn trang sách.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.