Trận chiến Đông Solomon
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận chiến Đông Solomon (hay còn gọi là Trận chiến quần đảo Stewart và theo tài liệu của Nhật là Trận chiến biển Solomon lần thứ hai - 第二次ソロモン海戦[d]), diễn ra từ ngày 24 tháng 8 đến ngày 25 tháng 8 năm 1942, là trận hải chiến hàng không mẫu hạm thứ ba trên mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai (hai trận trước là Trận biển Coral và Trận Midway), trận hải chiến lớn thứ hai giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Đế quốc Nhật Bản về mặt thời gian trong chiến dịch Guadalcanal (trận hải chiến lớn đầu tiên trong chiến dịch này là Trận đảo Savo). Giống như trong các trận chiến tại biển San hô và Midway, các chiến hạm của cả hai bên đã không nhìn thấy nhau và các đợt tấn công của cả hai bên đều được tiến hành bằng các máy bay xuất phát từ hàng không mẫu hạm hay các căn cứ trên đất liền.
Trận chiến Đông Solomon | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai | |||||||
Hàng không mẫu hạm USS Enterprise đang sử dụng hỏa lực phòng không chống lại cuộc tấn công của các oanh tạc cơ bổ nhào Nhật Bản vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Đồng Minh: Hoa Kỳ Úc | Nhật Bản | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Robert Ghormley Frank Jack Fletcher |
Yamamoto Isoroku Nagumo Chūichi | ||||||
Lực lượng | |||||||
2 hàng không mẫu hạm, 1 thiết giáp hạm, 4 tuần dương hạm, 11 khu trục hạm, 176 máy bay[1][a] Lực lượng tại sân bay Henderson. |
2 hàng không mẫu hạm, 1 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ, 2 thiết giáp hạm, 16 tuần dương hạm, 25 khu trục hạm, 1 tàu chở thủy phi cơ, 4 tàu tuần tra, 3 chuyển vận hạm, 171–177 máy bay[2][b] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
1 hàng không mẫu hạm bị hư hại nặng, 25 máy bay bị mất, 90 người chết[3] |
1 hàng không mẫu hạm hạng nhẹ chìm, 1 khu trục hạm chìm, 1 chuyển vận hạm bị chìm, 1 tuần dương hạm hạng nhẹ hỏng nặng, 1 tàu chở thủy phi cơ bị hư hại nặng, 75 máy bay bị mất, Hơn 290 người chết[4][c] |
Với mục tiêu tái chiếm sân bay Henderson và đẩy lùi quân Đồng Minh khỏi Guadalcanal, Lục quân Đế quốc Nhật Bản đã quyết định đưa thêm quân đổ bộ lên Guadalcanal. Để yểm trợ cho cuộc đổ bộ này cũng như để tiêu diệt Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, đô đốc Isoroku Yamamoto đã quyết định gửi đến vùng quần đảo Solomon một lực lượng lớn thuộc Hạm đội Liên hợp bao gồm ba hàng không mẫu hạm và nhiều chiến hạm khác do phó đô đốc Nagumo Chūichi chỉ huy. Cùng lúc đó, nhận được tin hạm đội Nhật tiến về phía quần đảo Solomon, ba Lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm Mỹ của Đô đốc Frank Jack Fletcher cũng tiến đến Guadalcanal để đối phó các nỗ lực tấn công của quân Nhật.
Kết thúc trận đánh, cả hai hạm đội Nhật và Hoa Kỳ đều lần lượt rút lui sau khi chịu một số thiệt hại mặc dù cả hai đều không đạt được một thắng lợi rõ ràng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ và các đồng minh của mình đã giành được một lợi thế lớn hơn cả về chiến thuật lẫn chiến lược trong trận đánh này vì phía Đồng Minh tổn thất ít hơn phía Nhật, đặc biệt là việc hải quân Nhật đã mất một số lượng đáng kể các máy bay và phi hành đoàn có kinh nghiệm. Ngoài ra người Nhật còn phải đình chỉ việc tăng quân cho Guadalcanal và từ đó trở đi buộc phải dùng các khu trục hạm thay thế các chuyển vận hạm vào nhiệm vụ chở quân, giúp cho Đồng Minh có thêm thời gian chuẩn bị chống lại các cuộc phản công của lục quân Nhật và ngăn chặn người Nhật đổ bộ được pháo hạng nặng, cung cấp đạn dược và hàng tiếp liệu cho lính Nhật đang chiến đấu ở trên đảo