Tây Ban Nha chinh phục Đế quốc Aztec
chiến tranh xâm lược Trung bộ Châu Mỹ của Tây Ban Nha thế kỷ thứ 16 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha, còn gọi là Cuộc chinh phục Mexico hay Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha (1519-1521)[7] là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá trình thuộc địa hóa châu Mỹ của Tây Ban Nha. Còn nhiều sử liệu sót lại từ thế kỷ XVI của các bên trong cuộc chiến: từ các conquistador, các đồng minh bản địa của Tây Ban Nha, kể cả người Aztec bị đánh bại. Sự kiện lịch sử này không đơn thuần là cuộc tranh giành quyền lực giữa một nhóm nhỏ người Tây Ban Nha với súng, ngựa và thép chống lại Đế quốc Aztec, mà còn phải kể đến động cơ chính trị của các thành bang uất ức người Aztec rất phức tạp, chia bè kết phái với người Tây Ban Nha để lật đổ nhà nước Aztec. Các kẻ thù của đế quốc Aztec đã hợp lực lại để đánh bại người Mexica tại trận vây hãm Tenochtitlan sau 2 năm chiến tranh. Đối với Tây Ban Nha, cuộc viễn chinh Mexico là một phần của kế hoạch thuộc địa hóa Tân Thế giới sau 25 năm định cư lâu dài quanh vùng biển Caribê.
Cuộc chinh phục Mexico của Tây Ban Nha | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ và Chiến tranh Mexico-Da đỏ | |||||||||
Cuộc chinh phạt Mexico bởi Cortés, tranh sơn dầu [1] tiếng Tây Ban Nha: Conquista de México por Cortés | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Vương miện Castilla [2]
Các đồng minh bản địa:
Hỗ trợb:
|
Liên minh Tam quốc (1519–21)
Các thành bang đồng minh:
Các vương quốc và thành bang độc lập:
Thống đốc quốc Cuba (1520) | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Chỉ huy đồng minh bản địa: |
| ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Đế quốc Tây Ban Nha (tổng cộng):
~10.000 lính Totonac (~8.400 đi theo Cortés từ Cempoala) và nhiều đồng minh Anh-điêng bản địa |
| ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
1.800 lính Tây Ban Nha chết [3] Hàng ngàn Tlaxcaltec và đồng minh bản địa chết |
200.000 người Aztec thiệt mạng (kể cả thường dân) [4]
Nhiều đồng minh bản địa chết 5 lính Tây Ban Nha chết, thương vong nhiều ở trận Cempoala (1520) | ||||||||
|
Sau khi Christopher Columbus thành lập các khu định cư tại Caribê, nhiều cuộc viễn chinh hoặc entradas của Tây Ban Nha được tiến hành nhằm chinh phục và mở rộng lãnh thổ, sử dụng các khu định cư bấy giờ làm bàn đạp. Chiến dịch của Tây Ban Nha bắt đầu vào tháng 2 năm 1519, sau khi người Tây Ban Nha cập bến Yucatán năm 1517. Hai năm sau, Tây Ban Nha tiến hành đánh chiếm châu Mỹ.[8] Tây Ban Nha tuyên bố chiến thắng vào ngày 13 tháng 8 năm 1521 khi liên quân Tây Ban Nha và các đồng minh bản địa Tlaxcala dưới sự chỉ huy của Hernán Cortés và Xicotencatl Trẻ bắt sống hoàng đế Cuauhtemoc và tiếp quản thủ đô Tenochtitlan của Đế quốc Aztec.
Cortés liên minh với các altepetl (thành bang chư hầu) và các chính thể thù địch với người Aztec, quan trọng nhất là liên minh Tlaxcaltec và thành bang Tetzcoco (từng là một thành bang thành viên của Liên minh Tam Quốc). Nhiều thành bang khác cũng theo Tây Ban Nha, bao gồm Cempoala và Huejotzingo và các chính thể giáp với Hồ Texcoco. Thành công của Tây Ban Nha nhờ một phần không nhỏ vào một nữ phiên dịch viên thông thạo ba thứ tiếng (tiếng Nahuatl, phương ngữ Maya và tiếng Tây Ban Nha), bà được những conquistador Tây Ban Nha biết đến với tên Doña Marina, thường được gọi là La Malinche. Sau 8 tháng chiến đấu và đàm phán, bất chấp sự phản kháng ngoại giao của Hoàng đế Aztec Moctezuma II, Cortés đến được Tenochtitlan vào ngày 8 tháng 11 năm 1519, nơi ông và quân của ông được phép cho trú nhờ. Khi Cortés hay tin về cái chết của một số lính Tây Ban Nha trong cuộc đụng độ của quân Aztec với người Totonac ở Veracruz, Cortés bắt giữ Motecuhzoma làm con tin. Việc bắt giữ cacique (tù trường) hoặc thủ lĩnh bản địa từng được áp dụng bởi người Tây Ban Nha trong quá trình chinh phục vùng Caribê, vì vậy sự biến này không có gì quá mới mẻ, nhưng các học giả hiện đại vẫn nghi ngờ rằng Cortés và binh lính không thực sự bắt giữ Motecuhzoma vào thời điểm này. Người Tây Ban Nha có động cơ để tuyên bố rằng họ đã bắt vị hoàng đế, do luật pháp của Tây Ban Nha thời bấy giờ, nhưng phân tích phê bình các lá thư viết cá nhân của họ cho thấy rằng Motecuhzoma bị bắt ở một thời điểm sau đó.
Pánfilo de Narváez được cử đi cùng một đội quân nhỏ để bắt Cortés về Cuba, khiến Cortés phải rời Tenochtitlan và để Pedro de Alvarado cùng một đội quân đồn trú ở lại. Cortés dẫn quân ra bờ biển với kế hoạch đột kích trại của Narváez trong đêm. Sau khi đánh bại Narváez, Cortés thuyết phục hầu hết người của Narváez theo ông và hứa hẹn tiền tài với họ. Khi quay lại Tenochtitlan, Cortés và lực lượng mới hay tin "người Aztec đã trỗi dậy chống lại quân đồn trú Tây Ban Nha" trong một lễ hội tôn giáo.[9] Alvarado đã bốc đồng hạ lệnh cho quân đội tấn công đám đông không vũ trang; cho rằng người Aztec dùng lễ kỷ niệm này để che đậy một cuộc phản kháng. Cortés nhận ra thất bại sắp xảy đến và quyết định triệt thoái quân khỏi thành phố. Người Aztec đánh đuổi người Tây Ban Nha đang tháo chạy khỏi thành phố trong sự kiện La Noche Triste (Đêm Sầu), "400 người Tây Ban Nha, 4000 đồng minh bản địa và nhiều con ngựa [bị giết] trước khi bước chân lên được đất liền".[9] Moctezuma bị giết mặc dù không rõ là ai đã giết ông.[10] Theo một sử liệu, Moctezuma bị dân chúng coi là con rối của bè lũ Tây Ban Nha xâm lược, vị hoàng đế đang cố gắng trấn an đám đông tức giận thì bị một viên đá bắn trúng mà chết.[11] Theo sử liệu phía Aztec, quân Tây Ban Nha đã giết Moctezuma.[12] Liên quân Tây Ban Nha-Tlaxcala và trợ quân quay trở lại thành Tenochtitlan một năm sau đó vào ngày 13 tháng 8 năm 1521 để chặt bỏ đầu não của đế quốc Aztec đã suy yếu. Chiến thắng của Tây Ban Nha thường được cho là do tiến bộ công nghệ và nạn dịch đậu mùa làm suy kiệt dân số vùng Mexico. Theo Hassig, "Đúng là đại bác, súng, nỏ, đao thép, ngựa và chó chiến là những thứ tối tân khi so với vũ khí của người Aztec. Nhưng lợi thế mà chúng đem lại cho vài trăm binh sĩ Tây Ban Nha không thực sự quá áp đảo."[13] theo Restall, "vũ khí của Tây Ban Nha hữu ích để bẻ gãy các đợt tấn công từ chiến binh bản địa, nhưng chúng không phải là công cụ để chinh phục... đúng hơn, chúng là công cụ để sống sót, câu giờ cho đến khi quân tiếp viện của Tây Ban Nha và bản địa đến."[7]